Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trói BuộcGiải Thoát

01 Tháng Sáu 201909:50(Xem: 7231)
Trói Buộc Và Giải Thoát

TRÓI BUỘCGIẢI THOÁT

Nguyễn Thế Đăng


Trói Buộc Và Giải Thoát

Con người
chúng ta hình như luôn luôn thấy mình bị trói buộc, và cuộc sống càng nhiều trói buộc thì càng chật chội hơn. Chúng ta bị trói buộc; điều đó nếu chú ý một chút, chúng ta sẽ thấy ngay. Như đang đi chơi, thư giãn với thiên nhiên, không muốn nghĩ đến điều gì, nhưng ý nghĩ cứ bật lên; đối tượng nào đó, sự vật nào đó cứ hiện lên như một ám ảnh. Không muốn nghĩ đến mà nó cứ đến, đối tượng đó đã trói buộc tâm chúng ta.

Ở một tầm mức vũ trụ, chúng ta bị trói buộc bởi ba cõi và những chúng sanh sống trong đó; và vì sự trói buộc ấy chúng ta cứ sống chết, lang thang nhiều đời trong ba cõi sanh tử, trong những cuộc đời chật hẹp. Cho nên, giải thoátgiải thoát khỏi sự trói buộc của ba cõi sanh tử.

Bài kệ của Đức Phật khi Ngài giác ngộ:
Xuyên qua nhiều kiếp sống trong sanh tử luân hồi,
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, đi tìm người thợ xây cất cái nhà này.
Lập đi lập lại cuộc sống thật là muộn phiền.
Này hỡi người làm nhà.
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ nay ngươi không còn xây cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy.
Cây đòn dông của ngươi dựng nên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng ngộ quả Vô sanh Bất diệt và tận diệt mọi ái dục
.

Sanh tử là gì, những trói buộc ấy là do ai? Sanh tử do tâm thức chúng ta “xây cất” nên, “dệt” nên với sự trợ lực của những phiền não trong tâm thức như tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… Rồi do không biết (vô minh), càng lúc chúng ta càng bị trói buộc trong sanh tử do chính mình dệt nên ấy.

Sau đây chúng ta sẽ khảo cứu những phương pháp để “phá đổ căn nhà” đang giam nhốt chúng ta, theo kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn trong bộ Đại Bảo Tích.

Thế giới như chúng ta thấy, thế giới của chúng ta, đang trói buộc chúng ta. Thế giới ấy là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chúng đang trói buộc chúng ta. Sự trói buộc ấy tạo ra cho chúng ta phiền não, khổ đau không dứt. Làm sao để thoát khỏi những trói buộc ấy? Kinh nói:

Này Văn-thù-sư-lợi!
Thế nào gọi là sắc tướng tam-muội?
Quán sắc như đám bọt
Trong không có chắc thật
Vì chẳng thể nắm giữ
Đó tên sắc tam-muội.
Lại này Văn-thù-sư-lợi!
Thế nào gọi là thanh tướng tam-muội?
Quán thanh như tiếng vọng
Tánh nó bất khả đắc
Các pháp cũng như vậy
Vô tướng, vô sai biệt
Rõ biết đều tịch tịnh
Đó tên thanh tam-muội.

Quán là quan sát thấy, soi thấy, nhìn thấy bên trong (insight), thấy thấu suốt. Hành giả thấy sự vật, các pháp đúng như thật, không bị cái biểu hiện bên ngoài che mờ, làm lầm lạc.

Với sự quán thấy sâu xa, người ta sẽ thấy “sắc như đống bọt, trong không có chắc thật, chẳng thể nắm giữ” vì chẳng có gì để nắm giữ. Quán thấy sắc đúng như thật tướng của nó, người ta giải thoát mà không cần phải lìa bỏ nó hay huỷ hoại nó. Sắc vốn là giải thoát vì chẳng phải hiện hữu, chẳng phải không hiện hữu, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải dơ chẳng phải sạch, chẳng phải tăng chẳng phải giảm… Ở trong cái thấy thật tướng của sắc, gọi là tam-muội (samadhi), hay sắc tam-muội.

Ở trong cái thấy thật tướng của sắc hay sắc tam-muội, người ta giải thoát mà không cần phá bỏ hay sửa đổi sắc.

Thật tướng hay thật tánh của sắc là tánh Không, như thế, sắc vẫn thường tam-muội, nghĩa là sắc vẫn thường ở trong tánh Không. Sắc vốn là giải thoát.

Quán sát kỹ lưỡng, chúng ta thấy âm thanh như tiếng vọng trong hang núi (cốc hưởng) không đến từ đâu, không tan biến ở đâu. Quán chiếu sâu hơn nữa, chúng ta thấy bản tánh, tự tánh của nó là bất khả đắc. Và không chỉ âm thanh, mọi hiện tượng, mọi pháp đều như vậy, đều “như đống bọt, trong không có chắc thật, vì chẳng thể nắm giữ”.

Sắc tướng, thanh tướng đều “vô tướng, vô sai biệt” cho nên “đều tịch tịnh”. Quán thấy rốt ráo tánh của sắc tướng và thanh tướng, chính sự quán thấy này đưa chúng ta đến giải thoát vì thấy tất cả đều tịch tịnh. Tịch là lặng dứt, không sanh khởi, vô sanh. Tịnh là thanh tịnh, chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử.

Những thành ngữ trên (“chẳng thể nắm giữ”, “bất khả đắc”, “vô tướng”, “vô sai biệt”, “tịch tịnh”) được lặp đi lặp lại nhiều lần trong kinh Đại Bát-nhã, và để chỉ tánh Không. Như vậy, quán là quá trình đưa tướng trở lại tánh, đưa sắc tướng, thanh tướng trở về bản tánh Không của chúng. Khi đưa các tướng trở về thật tướng của chúng là tánh Không, chúng được giải thoát, vì chúng là tánh Không.

Nói rộng hơn nữa, tất cả các tướng tạo thành sanh tử khi được đưa về bản tánh Không của chúng thì đều được giải thoát. Dùng chữ đưa về, đưa trở lại, chỉ là một cách nói; thật ra, khi quán thấy sanh tử trong tận thật tướng, thật tánh của nó là tánh Không, thì sanh tử vốn là giải thoát, vì vốn “đều tịch tịnh”.

Thực tại tối hậutánh Không. Nhưng tánh Không không có nghĩa là không có gì cả, hư vô, đoạn diệt.

Kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn nói ở đoạn sau:

Giận dữ tức Thật tế
Bởi nương Chân như khởi
Biết rõ như pháp giới
Đó tên sân tam-muội.
Tánh Không tức là Thật tế, Chân như, Pháp giới.
Tánh Không cũng là Niết-bàn, pháp tánh thanh tịnh.
Pháp tham trong Phật pháp Bình đẳng, tức Niết-bàn …
Pháp tánh vốn vô nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Tìm cầu khắp mười phương
Tánh nó bất khả đắc.

Mọi tướng trong cái thấy mê lầm của thế gian là những cái tạo thành sanh tử, nhưng trong một cái thấy đúng (chánh kiến), thanh tịnh vì đã loại bỏ vô minh, thì tướng tức là tánh: “Giận dữ tức Thật tế, bởi nương Chân như khởi”, “Pháp tham trong Phật pháp, Bình đẳng tức Niết-bàn”.

Tam-muội là an trụ trong thật tánh của tất cả các pháp, và an trụ trong tánh thì khi ấy các tướng đều là tánh. Đó là phương cách giải thoát khỏi sanh tử khi thấy bản tánh của sanh tử là Niết-bàn.

Nguyễn Thế Đăng

Văn Hóa Phật Giáo Số 321 ngày 15-05-2019

 
Bài đọc thêm:
Trói buộcgiải thoát (Thích Tâm Hạnh)
Giải ThoátCốt Lõi Của Đạo Phật (Thích Thanh Từ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1078)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 990)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1325)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 780)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 800)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 790)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 930)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 816)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 974)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 982)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 914)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 843)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 977)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 944)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 900)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 998)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1130)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1600)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1233)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 790)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1319)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1316)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1244)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1310)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1292)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant