Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phát Bồ Đề Tâm

08 Tháng Sáu 201907:37(Xem: 5376)
Phát Bồ Đề Tâm
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM 

Đức Đạt Lai Lạt Ma
 
Thương Mình

Thekchen Chöling, Dharamsala, Ấn Độ - Trước khi Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Chùa Chính sáng nay, ‘Bát Nhã Tâm Kinh’ đã được tụng ba lần bằng các ngôn ngữ của Cộng hòa Phật giáo Liên bang Nga - Kalmykia, Buryatia và Tuva. Sau khi quang lâm, Ngài đã chào đón các vị Lạt-ma nổi tiếng, chư khán giả và Ngài đã an toạ trên Pháp toà, ‘Bát Nhã Tâm Kinh’ lại được tụng lên một lần nữa bằng tiếng Nga.

Ngài thông báo: “Để kết thúc loạt giáo lý này, hôm nay chúng ta sẽ tiến hành một buổi lễ Phát Bồ Đề Tâm. Khi nào Bồ Đề Tâm còn được quan tâm, thì chúng ta cần phải hiểu rằng chúng ta đang tìm cách để đạt được một trạng thái mà trong đó tất cả các phiền nãolỗi lầm đã được đoạn trừ, và trong đó - sự giác ngộ hoàn toàn - nhất thiết chủng trí - được thành tựu. Sự giác ngộ vô songmục tiêu mà quý vị tìm kiếm khi quý vị phát Bồ Đề Tâm. Quý vị khao khát trở thành một vị Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Trong “Nhập Trung Quán Luận” Ngài Nguyệt Xứng đã viết:

“Thậm chí những người trụ ở Bồ Tát Sơ Địa
Chế ngự những người sinh ra từ khẩu của Hàng Phục Vương
Và chư Thanh Văn nhờ vào công đức của họ tăng trưởng;
Ở Địa Bất Lai, vị ấy vượt xa họ nhờ vào trí tuệ của mình”.

Vào cuối chương thứ sáu của cùng một tác phẩm, Ngài đã viết:

“Và giống như Chúa tể Thiên nga, vượt lên trước những con chim nhỏ, 
Trên đôi cánh trắng rộng của Bồ Đề Tâm tương đốiBồ đề Tâm tối thượng
Và trên sức mạnh của cơn gió hùng phong của đức hạnh,
Họ bay tới bờ biển xa và siêu việt - phẩm chất đại dương của Chiến thắng Vinh quang”.

Những dòng mạnh mẽ này từ ‘Nhập Trung Quán Luận’đã vang lên âm điệu xưng tán lòng từ bi trong lời cầu nguyện.

“Lòng từ bi, trí tuệ bất nhị, và Bồ Đề Tâm 
Là những nguyên nhân của các bậc Bồ Tát”.

Về phương diện thực hành, lòng từ bi rất quan trọng ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối. “Lời Cầu Nguyện của Đức Di Lặc” nói rằng Bồ đề Tâm là nhân tố đưa bạn tránh ra khỏi các cõi thấp, đến các cảnh giới cao hơn và cuối cùng đạt đến trạng thái bất tử - nơi mà bạn không bị sự chi phối của sự già và chết. Kể từ thời Đức Phật, các bậc thầy vĩ đại của Ấn Độ đã theo Ngài tu luyện Bồ đề tâm. Đây là lý do tại sao chúng ta coi Đức Phật là vị Thầy, Pháp là nơi nương tựa thực sự và Tăng thân, giống như Ngài Long Thọ, v.v., như những người bạn đồng hành trên con đường đưa đến giác ngộ.

Để đạt được Phật quả, chúng ta cũng cần phải liễu ngộ tánh Không. Trường phái Trung Quán do Ngài Long Thọ hỗ trợ là rất quan trọng, đến nỗi Ngài Thanh Biện đã chỉ trích điều mà ông gọi là sự liều lĩnh của Ngài Vô TrướcThế Thân trong việc hờ hững đối với chấp nhậntuân theo nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ đọc của Ngài Long Thọ, chúng ta sẽ không đạt được sự hiểu biết sâu sắc lắm. Giải quyết các thách thức được đặt ra bởi các quan điểm khác sẽ có tác dụng mở rộng và làm phong phú thêm sự nhận thức rõ ràng của mình. Nghiên cứu nhiều luận giải khác nhau sẽ có được một kết quả rõ ràng.

dalai lama 035
Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến hành nghi lễ phát Bồ Đề Tâm vào ngày cuối cùng của Pháp Hội tại Chùa Tây Tạng Chính ở Dharamsala, HP, Ấn Độ vào 12 tháng 5, 2019. Ảnh của Lobsang Tsering

Ngài giải thích rằng, để tiến hành nghi thức phát Bồ Đề Tâm, bạn có thể thực hiện theo nghi thức sâu rộng được mô tả trong tác phẩm “Bồ Tát Địa” của Ngài Vô Trước, hoặc trong bản “Nhập Bồ Tát Hạnh” ngắn hơn của Ngài Tịch Thiên. Ngài gợi ý rằng hôm nay Ngài sẽ tiếp tục với bài Kệ được bắt đầu bằng: “Với mong muốn giải thoát tất cả chúng sinh …”

Ngài nói rằng Đức Phật là người đã đi trên con đường này, và Ngài đã giảng dạy từ kinh nghiệm của chính mình về cách khắc phục những cảm xúc phiền não, vô minh và những nhiễm ô còn sót lại của chúng. Bằng cách thực hành theo lời dạy của Ngài, chúng ta có thể đoạn trừ được tất cả các phiền não, vì thế Đức Phật có thể được coi là bậc Đại Đạo Sư.

Ngài hướng dẫn khán giả quán tưởng Đức Phật trong không gian trước mặt họ như một người đang sống thực thụ, được bao quanh bởi Tám môn đệ thân cận như đức Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, v.v. Bảy vị Tổ Sư như Kashyapa - những người đến sau Ngài; Mười Bảy bậc Luận Sư Nalanda - Long Thọ, Vô Trước và những đệ tử của họ; 84 Vị Đại Thành Tựu (Mahasiddhas) như Saraha và vv.

Ngài đã bàn ra ngoài lề khi đề cập đến sự khác biệt được rút ra bởi một Lạt ma ở thế kỷ 18 tên là Nyengön Sungrab giữa các giáo lý tạo thành cấu trúc chung của Phật giáo và các giáo lý chuyên biệt. Các giáo lý thuộc về Kinh điển và các tác phẩm như “Trí Tuệ Căn Bản Trung Quán Luận” của Ngài Long Thọ tạo thành cấu trúc chung mà bất cứ ai cũng có thể hành theo. Những Mật điển, như Thời Luân (Kalachakra), liên quan đến việc thực hành với các kinh mạch, khí và các giọt bindu là những giáo lý chuyên biệt dành cho các đệ tử đặc biệt.

Tiếp tục mô tả về những người được quán tưởng vân tập xung quanh Đức Phật, Ngài đã đề cập đến các Đạo sư Tây Tạng cũng như các Bậc Thầy Ấn Độ của họ: các Đạo sư Nyingma như 25 đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh; các Bậc Thầy Sakya của truyền thống LamDre; các bậc Thầy thuộc ba dòng truyền thừa Kadampa; các bậc Thầy từ bốn truyền thống chính và tám truyền thống phụ Kagyu và các bậc Thầy của truyền thống Tân Kadampa, các Vị Gandenpas, Ngài Jé Tsongkhapa và các đệ tử của Ngài.

Những nhân vật này là những tấm gương mẫu mực đối với chúng ta về mặt thực hành các Đạo lộ sâu sắc và rộng lớn. Hãy thỉnh cầu các Ngài làm những nhân chứng chứng minh cho việc phát Bồ Đề Tâm của quý vị; bằng cách đó quý vị sẽ tạo ra được nhiều công đứcnăng lượng lành mạnh. Ngài Tịch Thiên đã tóm tắt những lợi ích của việc phát Bồ Đề Tâm như sau:

"Những niềm hỷ lạc trên thế gian này 
Đều xuất phát từ lòng khát khao mang lại niềm vui cho người khác 
Và những nỗi khổ đau trên cõi đời này, 
Đều đến từ lòng ích kỷ mong cầu hạnh phúc của riêng mình"
.

"Nếu con không thực sự hoán đổi hạnh phúc của mình
Cho những khổ đau của bao nhiêu người khác;
Thì không những cảnh giới Phật con sẽ không bao giờ đạt;
Mà ngay cả trong luân hồi con sẽ chẳng thể nào vui".

Chúng ta phải lấy Bồ Đề Tâm làm sự thực hành chính của mình. Khi tôi vào khoảng 13 tuổi, với sự khích lệ tích cực của Ngodup Tsognyi, tôi rất quan tâm đến tánh không, còn Bồ Đề Tâm thì có vẻ xa vời đối với tôi. Tuy nhiên, sau khi tôi tị nạn, và đặc biệt là sau khi tôi thọ nhận luận giải về ‘Nhập Bồ Tát Hạnh’ từ Khunu Lama Rinpoche, tôi bắt đầu kết hợp Bồ đề Tâm vào sự thực hành của mình. Theo thời gian, với kết quả của sự nỗ lực, Bồ Đề Tâm đã trở nên gần gũi đối với tôi. Quý vị cũng nên làm như thế. Hãy phát Bồ Đề Tâm, theo đuổi sự thực hành và những gì đã xảy ra với tôi cũng có thể sẽ xảy ra với quý vị.

Ngài yêu cầu hội chúng quỳ trên đầu gối phải của họ, và tiếp tục duy trì sự quán tưởng mà Ngài đã mô tả một cách sống động trước mặt họ, trì tụng Cầu Nguyện Bảy Phần - lễ lạy, cúng dường, sám hối, quy y, thỉnh Đức Phật và các Ngài… như những nhân chứng tri, thỉnh chuyển Pháp luân, thỉnh các Ngài trụ thế đừng nhập Niết Bàn, và hồi hướng. Sau đó, Ngài đã hướng dẫn họ đọc những câu thơ này ba lần:

"Với ước nguyện giải thoát chư chúng sanh
Con sẽ luôn quy y về nương tựa,
Nơi Đức Phật, Giáo PhápTăng Đoàn
Cho đến khi con hoàn toàn giác ngộ".

"Được thôi thúc bởi Trí tuệTừ bi,
Nay trước sự chứng tri của Đức Phật
Con nguyện phát khởi Tâm Bồ Đề
Vì lợi ích của tất cả chúng sinh".

“Cho đến khi nào không gian còn tồn tại
Và đến khi nào chúng sinh vẫn hiện còn,
Con nguyện ở lại cho đến thời điểm ấy, 
Để tận trừ những đau khổ của thế gian”.

Cuối cùng, Ngài khuyến khích những người tập trung trước mặt Ngài nên đọc những bài Kệ này ba lần mỗi ngày sau khi họ thức dậy vào buổi sáng và ba lần nữa vào buổi tối. Ngài giải thích về cách tu luyện Bồ Đề Tâm và đặt khát vọng giác ngộ ngay từ đầu ngày để có thể thiết lập khí thế cho cả ngày, giúp bạn có thể dành thời gian một cách có ý nghĩa để phụng sự cho tha nhân. Sau đó, vào cuối ngày, bạn sẽ rất hoan hỷ hồi hướng công đức cho lợi ích của tất cả chúng sinh.

Để kết thúc, Ngài đã đọc bài Kệ hồi hướng từ bài “Cầu nguyện Phổ Hiền”, sau đó là những dòng từ phần cuối của “Đại luận về giai trình của Đạo giác ngộ”:

"Giống như Đức Phổ Hiền thiện xảo
Với thân, khẩu, ý hoàn toàn thuần tịnh
Con nguyện xin thành tâm hồi hướng
Đến cõi lành Tịnh độ Phật Đà".

"Con xin phát khởi nguyện vọng Đức Văn Thù
Bởi đấng Bồ Tát này thực hành mọi thiện hạnh,
Để hoàn thiện những pháp thực hành này
Không nản lòng hoặc dừng nghỉ trong mọi kiếp tương lai".

"Ở những nơi giáo lý tối cao, quý báu chưa lan rộng;
Hoặc nơi được lan rộng nhưng đã bị diệt vong;
Nguyện cho con thắp sáng kho tàng hạnh phúc lợi lạc ấy
Với tâm thức tràn ngập yêu thương của lòng từ bi vĩ đại".

Nguồn: dalailama.com

Trong bài giảng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giảng: "Để đạt được Phật quảchúng ta cũng cần phải liễu ngộ tánh Không." Vậy Tánh không là gì và làm thế nào để liễu ngộ Tánh không, xin mời quý độc giả đọc thêm các bài dưới đây:
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2477)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2297)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2616)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2388)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2267)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2485)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2492)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2515)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3001)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2607)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2923)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2541)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3998)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2995)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3272)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2474)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2760)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2828)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2584)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2456)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2645)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2689)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2521)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2104)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2556)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2020)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2780)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2678)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2463)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3247)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant