Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lợi Ích Của Sự Biết Đủ

09 Tháng Sáu 201907:41(Xem: 5771)
Lợi Ích Của Sự Biết Đủ
LỢI ÍCH CỦA SỰ BIẾT ĐỦ

Sri Dhammananda
Thích Trung Hũu

Người Khách Trọ

Không biết từ khi nào, con người lại có những tính xấu như tham lam, ích kỷ, thù hằn, ganh ghét…, và chúng vẫn không thay đổi theo thời gian cho đến ngày nay. 

Những tính xấu này mải vây bủa con người là do chúng ta không có khả năng chinh phục tâm trạng và thay thế chúng bằng những đức tính cao đẹp khác như từ bi và tình yêu thương. Trong thực tế, có một từ mà con người thường hay sử dụng trong giao tiếp với nhau, đó là “ghét”, hay “không ưa”. Trong gia đình thì cha mẹ ghét con cái bất hiếu, con cái ghét cha mẹ vì cho rằng cha mẹ đã không cho họ những cái họ cần. Ngoài xã hội thì người này căm ghét người kia bởi họ cảm thấy người kia cản trở công việc hay sự phát triển của mình. Trong mối quan hệ quốc tế thì nước này biểu lộ sự thù hằn đối với nước kia bởi bất kỳ hành động nào mà họ cho là làm tổn hại đến lợi ích quốc gia của họ.

Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị để đón nhận những khó khăn và rắc rối của cuộc sống. Cuộc sống không thể khôngvấn đề này hay vấn đề nọ. Đó là thực tế. Chúng ta quá đắm đuối vào việc hưởng thụ những thú vui dục lạc, và chúng ta phải trả giá cho sự hưởng thụ đó bằng những nỗi đau về thể xác hay tâm hồn hoặc cả hai, trong khi đó chỉ là những thú vui tạm thời và chẳng sớm thì muộn gì chúng sẽ bỏ ta mà đi. Điều này cũng giống như chúng ta phải trả tiền thuê nhà vậy. Chúng ta thuê nhà để ở thì phải trả tiền nhà. 

Cũng vậy, thông qua cơ thể này chúng ta hưởng thụ dục lạc thì chúng ta cũng phải trả giá cho sự hưởng thụ đó. Thế gian này không có gì là miễn phí cả. Cho nên, nếu chúng ta thật sự muốn loại trừ khổ đau về thể chấttinh thần thì chúng ta phải hàng phục những ham muốn vô độ của bản thân. Bao lâu chúng ta còn chịu sự điều khiển của lòng tham dục thì bấy lâu chúng ta còn đau khổ. Chúng ta trở thành nô lệ của con ma tham dục.

Để tránh những khổ đau về thể xác và đạt được hạnh phúc về tinh thần, chúng ta buộc phải lựa chọn một trong hai, hoặc là từ bỏ dục lạc hoặc là phải chịu khổ đau, chứ không thể vừa muốn hưởng thụ dục lạc lại cũng vừa muốn không bị khổ đau. Chúng ta như thế nào là do chính chúng ta chứ không thể đổ thừa cho bất cứ nguyên nhân bên ngoài nào. Lo lắng và khổ đau là kết quả tất yếu của tham ái và hưởng thụ. Còn nếu vẫn muốn hưởng thụ dục lạc thì chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để chấp nhận mọi hệ quả của nó. Những ai không ý thức về điều này sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng và chới với khi hậu quả xảy ra. 

Sự thay đổi của hoàn cảnh, già yếu, bịnh tật có thể cướp đi tất cả niềm vui của chúng ta. Một số người do không chuẩn bị tinh thần trước có thể sẽ bị khủng hoảng tinh thần, thậm chí tự tử. Chúng ta không thể gán ghép cho rằng Phật giáobi quan chỉ vì tôn giáo này chỉ ra sự thật của cuộc đời. Tất cả những lời dạy của Đức Phật đều là để chỉ cho chúng ta hiểu bản chất của con ngườithiên nhiên nhằm có cuộc sống hạnh phúcý nghĩa.

Với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, con người gần như làm chủ thế giới. Con người tin rằng họ có thể biến thế giới này thành thiên đường khi những bí mật của tự nhiên được khám phá và điều khiển. Khát vọng thống trị đất liền, biển cả và không gian thôi thúc con người không ngừng tìm kiếm những lục địa mới. Tuy nhiên, càng chinh phục được thế giới bên ngoài thì con người càng bỏ quên thế giới bên trong họ. Sự phát hiện ra các thế giới bên ngoài vẫn không thể mang con người đến gần hơn với bình yên và hạnh phúc. Thật sự họ chỉ thành công trong việc làm cho đầu óc của họ ngày càng căng thẳngbất mãn

Sự bình yên và hạnh phúc có thể được tìm thấy nếu chúng ta nỗ lực. Nhưng để làm được điều này, trước hết chúng ta phải học nhìn sự vật một cách chánh kiến. Chúng ta chẳng khác gì đang tham gia một trận đánh mà cái kết thất bại đã được biết trước, bởi vì ai rồi cũng sẽ chết. Và trong quá trình diễn tra cuộc chiến đó, thỉnh thoảng chúng ta thắng được một vài trận nhỏ và chúng ta lấy đó làm thỏa mãn, cho đó là thành công, là hạnh phúc. Làm sao có thể hạnh phúc được khi mà trí óc và trái tim ta chưa hoàn toàn thoát khỏi sợ hãi, căng thẳngbất an.

Niềm vui do các giác quan đem lại chỉ làm cho con người thỏa mãn trong thoáng chốc. Nó rất dễ dàng thay đổi và chuyển thành khổ đau. Cuộc đời này hình như không có niềm vui nào là hoàn toàn và kéo dài mãi mãi. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết tu tập để vượt qua tính ích kỷ và không gây ra tội lỗi cũng như huấn luyện tâm mình cho được định tĩnh thì chúng ta cũng có thể nếm được hương vị của hạnh phúc chân thật. Như chúng ta biết, Mỹ là một nước phát triển nhất thế giới và người Mỹ cũng đã đổ bộ lên mặt trăng cũng như chinh phục không gian vũ trụ. Ấy vậy mà có khoảng 18,7% (tức hơn 1/6) dân số Mỹ mắc phải các vấn đề về tâm lý. Vậy việc họ đổ bộ lên mặt trăng đem lại cho họ lợi ích gì? Việc họ chinh phục vũ trụ có giúp họ thoát khỏi tình trạng rối loạn tâm thần hay già, bịnh và chết, thậm chí chỉ làm cho họ được ổn định tinh thần đôi chút để có thể sống yên bình và chan hòa với những người khác? Cũng may là con người chưa tìm được gì quý trên mặt trăng như vàng hay kim cương, chẳng hạn. Nếu không thì chắc sẽ có những cuộc chiến đẫm máu giữa các quốc gia với nhau để giành quyền thống trị vương quốc chị Hằng.

Những bậc thầy tôn giáo vĩ đại đều khuyên con người rằng hạnh phúc thật sự không thể đạt được bằng cách tìm kiếm các sở hữu vật chất, nhất là bằng các phương tiện ích kỷ, giẫm đạp lên người khác, hay tước đoạt quyền làm người của người khác. Hạnh phúc chỉ có thể đạt được khi chúng ta biết chia sẻ hạnh phúc của mình với người khác cũng như tùy hỷ với hạnh phúc của người khác. Chúng ta không nên tìm kiếm thành công bằng con đường ích kỷ và thiếu đạo đức.

Giản dị và biết đủ là những thành phần quan trọng của hạnh phúc. Theo Gandhi thì “nhu cầu càng ít thì hạnh phúc càng lớn”. Triết gia Hy Lạp Epicurus nói rằng: “Nếu bạn muốn làm cho ai đó hạnh phúc thì không cần cho anh ta sự giàu có mà chỉ cần lấy bớt của anh ta sự tham muốn”. Cùng ý này, W. Evan Wentz nói: “Ít ham muốn nhưng thỏa mãn với những thứ đơn giản là dấu hiệu của bậc chân nhân”. Nguyên nhân của những rắc rốinhân loại đang phải đối mặt hiện nay đều bắt nguồn từ sự ích kỷ của mỗi người, không sẵn sàng chia sẻ lợi ích và niềm vui với người khác. Trừ khi con người học cách chia sẻ và thanh lọc tâm ý để có thể hiểu mọi thứ không thiên vị và kỳ thị, hòa bình sẽ không thể có được trên trái đất này.

Chuyện kể rằng một ngày nọ, vua Ba-tư-nặc đến gặp Đức Phật và hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn, khi con nhìn chư Tăng, con thấy được sự thanh thản, vui tươi và vẻ rạng rỡ trên mặt của họ. Con được biết rằng chúng Tỷ-kheo chỉ ăn ngày một bữa nhưng tại sao họ lại được như vậy”. Đức Phật trả lời nhà vua rằng: “Đó là vì họ không nuối tiếc quá khứ, không lo lắng cho tương lai. Họ bằng lòng với những gì họ đang có và làm các công đức. Họ không bao giờ nói rằng như thế này hay như thế kia là không đủ đối với họ. Đó là cách họ sống. Và do đó mà họ giữ được trạng thái thanh thản, vui tươi và nét mặt rạng ngời như là kết quả của sự biết đủ”.

Bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể có được trạng thái an lạc của chúng Tăng, chỉ cần ta biết đủ và bằng lòng với hiện tại. Tại sao chúng ta lại không thể cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống hiện tại của mình, mặc dù chúng ta có nhiều thứ hơn những gì chúng ta cần? Đó là vì chúng ta không biết đủ. Nếu chúng ta thật sự biết đủ, sẽ không bao giờ nói rằng chúng ta không thỏa mãn với cái này hay cái kia. Chúng ta luôn cảm thấy không thỏa mãn là bởi vì có một sự xung đột giữa một bên là sự ham muốn ích kỷ và bên kia là quy luật vô thường

Đức Phật khuyên chúng ta hãy thực tập nguyên tắc “Biết đủ là giàu có nhất”. Người giàu có không nhất thiết phải có nhiều tiền. Có nhiều tiền mà lúc nào cũng nghi ngờ, sợ hãi, nghĩ rằng có ai đó đang tìm cách hại mình, đi đâu cũng phải có bảo vệ, nhà cửa thì mấy lớp khóa mà vẫn không thể ngủ ngon giấc, thì giàu như vậy để làm gì. Một người mà biết đủ thì đúng là một người may mắn, bởi anh ta không có những lo lắngsợ hãi như thế. Khi một người biết đủ, họ sẽ nghĩ rằng: “Như thế này là đã đủ cho tôi, cho gia đình tôi và tôi không còn muốn gì thêm nữa”. Nếu ai cũng nghĩ được như vậy thì đâu có vấn đề gì.

Khi chúng ta biết đủ thì không bao giờ có tâm ganh tỵ, và nhờ vậy mà ta cũng cho phép người khác sống vui vẻ. Nếu khôngganh tỵ thì giận dữ cũng không khởi lên. Nếu khônggiận dữ thì bạo lực và đổ máu không xảy ra, và do đó mọi người có thể sống một cách yên bình. Một cuộc sống biết đủ luôn luôn đem đến cho người ta hy vọng và tự tin. Đã hơn 25 thế kỷ trôi qua, những tín đồ Phật giáo, cả xuất giatại gia, đã sống một cách yên bình như thế mà không cần phải sở hữu gì nhiều. Nghĩ xem!

SRI DHAMMANANDA
Thích Trung Hữu
 dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1288)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1032)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant