Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoĐạo Đức Sinh Học Hiện Đại

02 Tháng Bảy 201904:42(Xem: 5146)
Phật Giáo Và Đạo Đức Sinh Học Hiện Đại

Phật GiáoĐạo Đức Sinh Học Hiện Đại

Thích Trung Định

 

Dây Trói Bền Chắc Nhất

Ngày nay, khi khoa học phát triển, người ta đã tìm thấy sự gần gũi giữa Phật giáo và khoa học. Nhiều bài viết nghiên cứu về sự tương đồng giữa Phật giáo và khoa học ngày càng nhiều. Khi Phật giáo tiếp tục lan rộng ở các nước phương Tây, sự tiếp cận Phật giáo với khoa học hiện đại ngày càng được nghiên cứuứng dụng trong việc lý giải một số vấn đề về nền tảng đạo đức cơ bản. Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, một đất nước thuộc truyền thống văn hóa châu Á. Do vậy, người ta thường tò mò về cách thức truyền thống châu Á cổ đại này sẽ đáp ứng như thế nào đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức đang đối mặt với thế giới hiện đại. Đạo đức sinh học Phật giáo là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật ở phương Tây không phải là mới mẻ, nhưng trong những năm gần đây cũng đã có sự gia tăng đáng kể ở các nước châu Á. Các trường phái Phật giáotruyền thống phong phú về tư tưởng đạo đức sinh học. Nhà nghiên cứu đạo đức Phật giáo phải đối mặt bây giờ là phải tạo ra một sự thích ứng đối với vấn đề mới, phù hợp với tinh thần của các giá trị Phật giáophù hợp với truyền thống kinh điển phong phú của nó. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng vì có rất ít bài kinh và sự nghiên cứu bài bản trong lĩnh vực mới mẻ này. Bởi lẽ, nền văn học tiên phong nhất của Phật giáo đã hơn 2600 năm nay, và nhiều vấn đề chúng ta phải đối mặt ngày nay là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện đại mà gần như không thể tưởng tượng được trong thời cổ đại. Trong việc xây dựng cây cầu từ cũ đến mới, có rất nhiều vấn đề khập khiễng và bất đồng có thể xảy ra. Và còn quá sớm để nói đến những giải pháp dứt khoát. Đồng thời, nó trở nên thích hợp để điều tra làm thế nào những vấn đề trong thực tế giữa các Phật tử, những người hoạt động tự nhiên trong một thế giới mà vai trò của tôn giáo ảnh hưởng lớn đến hành vi của họ.

Trong phạm vi bài nghiên cứu nhỏ này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát về các báo cáo đề xuất liên quan đến các lợi ích của nghiên cứu đạo đức sinh học và các vấn đề liên quan khác từ quan điểm đạo đức Phật giáo.

Đạo đức sinh học (Bioethics)

Đạo đức sinh học là một xu hướng hiện tượng trong thế giới mới của nền văn minh hiện đại. Nó như là một lĩnh vực nghiên cứu nhằm theo dõi một số nguyên nhânnguyên nhân quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ khoa học và những giá trị cơ bản của con người, nhất là vấn đề sức khỏe. Vấn đề này đã trở nên nóng bỏng và được quan tâm rất lớn đối với các nhà đạo đức học, khoa học và những nhà quản lýthẩm quyền. Mặc dù nhiều vấn đề về đạo đức sinh học đã được thảo luận từ thời cổ đại. Việc giới thiệu các công nghệ y sinh học hiện đại, đặc biệt là từ những năm 1950, ngành nghiên cứu này đã có những thành tựu đáng kể. Thứ nhất, nó đã khám phá ra khá nhiều điều mới mẻ, trong đó chủ yếu là việc làm sao kéo dài cuộc sống của con người, chẩn đoán trước khi sinh, phá thai, thử nghiệm của con người, các can thiệp di truyền và công nghệ sinh sản, sự tử tế, kiểm soát hành vitâm lý học. Định nghĩa về cái chết, quyền bảo vệ động vật, phân bổ các nguồn lực sức khoẻ và những khó khăn trong việc duy trì sức khoẻ môi trường… Thứ hai, có sự quan tâm sâu rộng đối với đạo đức sinh học, bởi nó tạo ra một thách thức về trí tuệđạo đức. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực đạo đức sinh học đã tạo điều kiện một cách cởi mở đối với các nghiên cứu đa ngành, cho nhiều học giả và các viện hàn lâm ngày nay. Đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến các khía cạnh hành vi con người cá nhânxã hội.

Đạo đức sinh học là một thuật ngữ hỗn hợp có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ‘bios’, nghĩa là đời sống, (life) và ethike đạo đức (ethics). Nó có thể được định nghĩa là nghiên cứuhệ thống về hành vi của con người trong lĩnh vực khoa học về sự sống và chăm sóc sức khoẻ. Công việc này được kiểm tra dưới ánh sáng của các giá trị đạo đức và nguyên tắc chặt chẽ. Sinh đạo đức được G. Hottois định nghĩa như: “Một toàn thể nghiên cứu, phát biểuthực hành, thường là đa ngành, nhằm mục đích làm sáng tỏ hoặc giải quyết những vấn đề mang tính chất đạo đức, gây nên bởi những phát triển và áp dụng kỹ thuật khoa học trong sinh học và y học.”[1] Đạo đức sinh học mở rộng đến các vấn đề liên quan đến giá trị nghiên cứu về sinh học và hành vi. Mặt khác nó cũng tìm hiểu các vấn đề xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ hữu cơ giữa con người với môi trường thiên nhiên, các hệ sinh thái, động và thực vật. Khái niệm về đạo đức sinh học đã cung cấp một nền tảng đạo đứctriết học. Đồng thời làm rõ khái niệm và đồng đánh giá đúng nghĩa về hòa bình, sự hài hòa giữa nhân loại và môi trường sinh học. Nó có thể được xem là một khoa học khái niệm có chiều hướng triết học, đồng thời là một hướng hoạt động thực tiễn. Từ góc độ triết học, đạo đức sinh học liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc tôn trọng cuộc sống. Điều quan trọng nhất đối với đạo đức sinh học là ý tưởng triết học rằng bất kỳ cá nhân, bất kỳ hình thức bios nào cũng có giá trị tuyệt đối duy nhất. Ý tưởng triết học cơ bản về sự thống nhất nội tại của cuộc sống con người và các sự sống khác đòi hỏi trách nhiệm của con người đối với tất cả các bios. Sự phát triển của đạo đức sinh học đòi hỏi phải vượt qua những thái độ biểu hiện cho rằng các sinh vật chỉ những công cụ hữu ích, và thái độ xem nhẹ đối với cuộc sống, phủ nhận sự khác biệt chủ yếu giữa chúng sinhvật chất không phải là sinh vật.

Các vấn đề đạo đức sinh học

Đạo đức sinh học đã trở thành một hiện tượng quốc tế thật sự. Đạo đức sinh học có cơ sở và ý nghĩa đối với các yếu tố tôn giáo, chính trị và pháp lý của các nền văn hoá. Là một lĩnh vực nghiên cứu, đạo đức sinh học đã thèm muốn một diễn đàn chính trị quốc tế. Các nhà đạo đức sinh học Tây phương muốn có một tiếng nói chung, phổ quát về sự đúng đắn của luân lý đạo đức chính đáng, bao gồm cả nền tảng của luật pháp và chính sách công, cũng như quyền đạo đức cho các thể chế trong nước và quốc tế để đảm bảo tính đồng nhất của thực tiễn, đảm bảo các quyền cơ bản của con ngườithúc đẩy công bằng xã hội. Chuyên môn về đạo đức học được tìm kiếm rộng rãi trong khuôn khổ của chính sách công và các thể chế. Sự đa dạng đạo đức tôn giáo và văn hoá đang tiến sâu trong đời sống con người. Đạo đức sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Chúng tách biệt với các viễn cảnh y sinh học, đạo đức khu vực, tôn giáo và văn hoá. Nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về trạng thái phản chiếu sinh học trên khắp thế giới ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Một mặt, họ chứng minh rằng sự quan tâm đến đạo đức sinh học lan tỏa và có sức ảnh hưởng trên toàn cầu. Nó cũng rất hữu ích để xem xét một số trục dọc. Theo đó, sự khác biệt đạo đức trong đạo đức sinh học có thể được hiển thị. Chúng tôi đã cố gắng để thảo luận về các vấn đề nghiên cứu tế bào gốc trong đạo đức sinh học. Mục đích của chúng tôi là nêu lên tất cả các vấn đềliên quan đến đạo đức sinh học đang phải đối mặt với thế giới do kết quả của nền công nghệ mới, những quan điểm thế giới khác nhau và sự đóng góp của Phật giáo đến các xã hội khác nhau. Khi thế kỷ 21 mở ra một chân trời mới rộng lớn hơn về các thành tựu khoa học công nghệ, đó là một trong những thách thức lớn nhất mà Phật giáo phải đối mặt. Trong thế giới hiện đại này, việc thiết lập một hệ thống nền tảng đạo đức toàn diện là điều rất cần thiết. Mặc dù, nó vượt quá phạm vi của bất kỳ một nghiên cứu nào để đạt được cả hai mục tiêu này.

Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến một sự bùng nổ về sự quan tâm đến tất cả các khía cạnh trong nghiên cứu Phật giáo. Đặc biệt là các đặc tính cơ bản của Phật giáo, liên quan đến ranh giới của các tông phái đã trở thành một xu thế trong nghiên cứu. Gần đây có các dấu hiệu cho thấy rằng, điều này đang bị lãng quên, cần phải được khắc phục và những sáng kiến đã không đến từ các nghiên cứu Phật học, mà đến từ những nghiên cứu so sánh về đạo đức tôn giáo. (Little, D. and Twiss: 1978). Trong khi Reynolds cho rằng, cần có những tạp chí nghiên cứu Phật học và khoa học mang tính định kỳ để tìm hiểu sâu hơn về sự đóng góp của đạo đức Phật giáo cho các ngành khoa học hiện đại. (Reynolds, 1979). Một số học giả cho rằng phần lớn các nghiên cứu về Phật giáo là dưới hình thức chung chung, và chưa có một nghiên cứu nào có hệ thống nhằm cung cấp cho mọi người một cách cụ thể về đặc tính, cấu trúc chính thức của hệ thống đạo đức Phật giáo làm chuẩn mực để sử dụng trong việc đánh giá các giá trị đạo đức triết học khác. Vấn đề này chúng tôi sẽ giới thiệu một cách cụ thể về quan điểm đạo đức học Phật giáo được trích dẫn trong Kinh tạng để xem xét đối chiếuứng dụng rộng rãi trong việc giải quyết các vấn đề đạo đức trong thời hiện đại.

Đạo đức sinh học và Phật học (Bio -ethics and Buddhism)

Nếu Phật giáo không vượt qua những thách thức của thế giới hiện đại, thì sẽ bị lụi tàn và diệt vong. Phật giáo có thể cung ứng tất cả những thắc mắc và lý giải đến tận cùng về bản chất thật của sự vật hiện tượng trong đó bao gồm cả vấn đề đạo đức sinh học. Khi động lực của hiện đại hoá tập trung, khó có thể duy trì một thái độ dửng dưnghy vọng những vấn đề của hiện đại sẽ biến mất. Sự phát triển toàn cầu trong khoa học và công nghệ y tế có nghĩa là thế giới hiện đại xâm nhập bất cứ điều gì chúng ta thích hay không. Đức Phật đã dạy về sự tồn tại của một đạo luật luân lý vĩnh cửu (dhamma sanātano) và tin rằng qua lý trí, phân tích, suy tư và thiền định, người ta có thể biết được các yêu cầu của luật này trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Đạo đức sinh học là một khía cạnh liên quan trực tiếp đến giáo lý Phật giáo và đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều kinh điển Phật giáo. Lời dạy của Đức Phật về bất bạo động (non-violence) và không xâm lược (non-aggression), không hận thù (non-anger) là sự thể hiện những lẽ thật tuyệt vời của đạo đức sinh học. Khái niệm Brahmavihāras hay ‘Tứ vô lượng tâm’ bao gồm từ (maitrī), bi (karuṇā), hỷ (muditā) và xã (upekkhā) và Lục-độ-ba-la-mật: bố thì (dāna), trì giới (sīla), nhẫn nhục (kṣanti), tinh tấn (vīraya), thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā) có thể được diễn giải để tái cấu trúc đạo đức Phật giáo cho thế giới hiện đại. Hơn nữa mô tả về giới (sīla) đầu tiên xuất hiện trong văn học Phật giáo là không giết hại sinh vật sống (panatipāta vermāni) cũng thể hiệnquan điểm của Phật giáo đối với đạo đức sinh học. Trong kinh Sa-môn-quả (Samaññaphala) của Trường-bộ-kinh (Dīgha Nikāya), có nhắc đến năm loại hạt giống như “hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhánh cây sanh, hạt giống từ đốt cây sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, hạt giống từ hạt giống sanh, (mūlabījam, khandhavījam, phalubījam, aggavījam và vījavījam) và có những hướng dẫn rõ ràng về việc đừng làm hại chúng. “Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống, và các loại cây cỏ.”[3] Tức không làm tổn hại đến bất kỳ sự sống nào, ngay cả những mầm sống mới bắt đầu. Trong kinh Từ bi (Mettā Sutta) của Kinh Tập (Suttanipāta) dạy rằng, những tạo vật thậm chí không có hình dạng của chúng, cũng không được giết hại (bhūta vā sambhevesia vā sabbe sattā bhavantu sukkhitatta). Còn Kinh Pháp cú (Dhammapada) cho rằng: ‘Thân người là khó được, việc duy trì đời sống lại càng khó hơn. Bất kỳ loại giết chóc nào cũng gây ra bất thiện nghiệp, và nhận kết quả là bất thiện. Do đó chịu đau khổthọ báo trong luân hồi sinh tử.’ Trong kinh Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) của Trung-bộ-kinh (Majjhima Nikāya), có một mô tả rõ về nghĩa jāti ‘sinh’. “Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh.”[4] Sinh được mô tả thành bốn loại đó là, noãn sanh, thai sanh, thấp sanhhóa sanh. Noãn sanhchúng sinh sanh ra từ trứng, như gà vịt, chim chóc…, thai sinh là sinh từ bào thai như người, trâu bò…thấp sanh là các loại côn trùng sanh ra từ nơi ẩm thấp, và hóa sanh là sanh do biến hóa, như ong, bướm, tằm, kén… Trong cùng một kinh điển chúng ta tìm thấy mô tả về cái chết. Cái chết đã được định nghĩa là “Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết.”[5] (cutti cavantā bhedo antardhanan maccu marnaṃ kālaṅdiriyā khandhānaṅ bhedo kalavarassanākkhepo jivītindriyassupacchado).

Sinh và chết được kinh điển định nghĩa rõ ràng, đó là tiến trình của quy luật tự nhiên. Mọi hành động của con người can dự và làm trái ngược vào hai tiến trình này được xem là không chánh đáng và cần nghiêm cấm. Như vậy, có rất nhiều hình thức của sự sống được mô tả trong kinh điển. Bất kỳ hình thức của sự sống nào, theo Phật giáo cũng không được giết hại. Phật giáo luôn đề cao tinh thần tôn trọngbảo vệ sự sống kể cả động, thực vật. Sự tôn trọngbảo vệ sự sống này rất hợp với quan niệm của đạo đức sinh học hiện đại.

Như vậy, trên nền tảng đạo đức dựa trên các cấm giới cho thấy đạo đức sinh học hiện đại cũng bao hàm trong các nội dung của đạo đức Phật giáo. Trong các chú giải chi tiết về các giới điều cho người xuất gia cũng như tại gialiên quan mật thiết với các nền tảng đạo đức sinh học. Sự sống, bao gồm cả vật hữu tình và vô tình đều được tôn trọngbảo vệ. Hai yếu tố từ bitrí tuệ luôn là hạt nhân chính yếu để giải quyết tất cả các vấn đề.

 

 Chú thích

[1] Hottois g., Parizeau m.h., Les mots de la bioéthique. Un vocabulaire encyclopédique, De Boeck-Université, coll “Sciences Ethiques Sociétés”, 1993

[2] Trường-bộ-kinh, Kinh Tướng số 30.

[3] Trường-bộ-kinh, Kinh Sa Môn quả.

[4] Trung-bộ- kinh, kinh Chánh kiến.

[5] Ibid,

Nguồn: Stem Cell Research and Bioethical Issues: A Buddhist Perception, by, Dr. Arvind Kumar Singh (Director, International Affairs & Assistant Professor), School of Buddhist Studies & Civilization, Gautam Buddha University.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 323 15-6-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11934)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8568)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9239)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 9917)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11229)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9774)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9285)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10026)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10076)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9254)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13223)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10128)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10416)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10871)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9040)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10240)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10185)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9291)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10975)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15018)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11747)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10082)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12628)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10845)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10367)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10721)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10631)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10493)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9958)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9253)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9310)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11231)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9578)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13026)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12584)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9115)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9520)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9551)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9514)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9080)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8913)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10266)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8560)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8248)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15437)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10698)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10721)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8839)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8930)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8519)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant