Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật GiáoĐạo Đức Sinh Học Hiện Đại

02 Tháng Bảy 201904:42(Xem: 5144)
Phật Giáo Và Đạo Đức Sinh Học Hiện Đại

Phật GiáoĐạo Đức Sinh Học Hiện Đại

Thích Trung Định

 

Dây Trói Bền Chắc Nhất

Ngày nay, khi khoa học phát triển, người ta đã tìm thấy sự gần gũi giữa Phật giáo và khoa học. Nhiều bài viết nghiên cứu về sự tương đồng giữa Phật giáo và khoa học ngày càng nhiều. Khi Phật giáo tiếp tục lan rộng ở các nước phương Tây, sự tiếp cận Phật giáo với khoa học hiện đại ngày càng được nghiên cứuứng dụng trong việc lý giải một số vấn đề về nền tảng đạo đức cơ bản. Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, một đất nước thuộc truyền thống văn hóa châu Á. Do vậy, người ta thường tò mò về cách thức truyền thống châu Á cổ đại này sẽ đáp ứng như thế nào đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức đang đối mặt với thế giới hiện đại. Đạo đức sinh học Phật giáo là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật ở phương Tây không phải là mới mẻ, nhưng trong những năm gần đây cũng đã có sự gia tăng đáng kể ở các nước châu Á. Các trường phái Phật giáotruyền thống phong phú về tư tưởng đạo đức sinh học. Nhà nghiên cứu đạo đức Phật giáo phải đối mặt bây giờ là phải tạo ra một sự thích ứng đối với vấn đề mới, phù hợp với tinh thần của các giá trị Phật giáophù hợp với truyền thống kinh điển phong phú của nó. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng vì có rất ít bài kinh và sự nghiên cứu bài bản trong lĩnh vực mới mẻ này. Bởi lẽ, nền văn học tiên phong nhất của Phật giáo đã hơn 2600 năm nay, và nhiều vấn đề chúng ta phải đối mặt ngày nay là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện đại mà gần như không thể tưởng tượng được trong thời cổ đại. Trong việc xây dựng cây cầu từ cũ đến mới, có rất nhiều vấn đề khập khiễng và bất đồng có thể xảy ra. Và còn quá sớm để nói đến những giải pháp dứt khoát. Đồng thời, nó trở nên thích hợp để điều tra làm thế nào những vấn đề trong thực tế giữa các Phật tử, những người hoạt động tự nhiên trong một thế giới mà vai trò của tôn giáo ảnh hưởng lớn đến hành vi của họ.

Trong phạm vi bài nghiên cứu nhỏ này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát về các báo cáo đề xuất liên quan đến các lợi ích của nghiên cứu đạo đức sinh học và các vấn đề liên quan khác từ quan điểm đạo đức Phật giáo.

Đạo đức sinh học (Bioethics)

Đạo đức sinh học là một xu hướng hiện tượng trong thế giới mới của nền văn minh hiện đại. Nó như là một lĩnh vực nghiên cứu nhằm theo dõi một số nguyên nhânnguyên nhân quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ khoa học và những giá trị cơ bản của con người, nhất là vấn đề sức khỏe. Vấn đề này đã trở nên nóng bỏng và được quan tâm rất lớn đối với các nhà đạo đức học, khoa học và những nhà quản lýthẩm quyền. Mặc dù nhiều vấn đề về đạo đức sinh học đã được thảo luận từ thời cổ đại. Việc giới thiệu các công nghệ y sinh học hiện đại, đặc biệt là từ những năm 1950, ngành nghiên cứu này đã có những thành tựu đáng kể. Thứ nhất, nó đã khám phá ra khá nhiều điều mới mẻ, trong đó chủ yếu là việc làm sao kéo dài cuộc sống của con người, chẩn đoán trước khi sinh, phá thai, thử nghiệm của con người, các can thiệp di truyền và công nghệ sinh sản, sự tử tế, kiểm soát hành vitâm lý học. Định nghĩa về cái chết, quyền bảo vệ động vật, phân bổ các nguồn lực sức khoẻ và những khó khăn trong việc duy trì sức khoẻ môi trường… Thứ hai, có sự quan tâm sâu rộng đối với đạo đức sinh học, bởi nó tạo ra một thách thức về trí tuệđạo đức. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực đạo đức sinh học đã tạo điều kiện một cách cởi mở đối với các nghiên cứu đa ngành, cho nhiều học giả và các viện hàn lâm ngày nay. Đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến các khía cạnh hành vi con người cá nhânxã hội.

Đạo đức sinh học là một thuật ngữ hỗn hợp có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ‘bios’, nghĩa là đời sống, (life) và ethike đạo đức (ethics). Nó có thể được định nghĩa là nghiên cứuhệ thống về hành vi của con người trong lĩnh vực khoa học về sự sống và chăm sóc sức khoẻ. Công việc này được kiểm tra dưới ánh sáng của các giá trị đạo đức và nguyên tắc chặt chẽ. Sinh đạo đức được G. Hottois định nghĩa như: “Một toàn thể nghiên cứu, phát biểuthực hành, thường là đa ngành, nhằm mục đích làm sáng tỏ hoặc giải quyết những vấn đề mang tính chất đạo đức, gây nên bởi những phát triển và áp dụng kỹ thuật khoa học trong sinh học và y học.”[1] Đạo đức sinh học mở rộng đến các vấn đề liên quan đến giá trị nghiên cứu về sinh học và hành vi. Mặt khác nó cũng tìm hiểu các vấn đề xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ hữu cơ giữa con người với môi trường thiên nhiên, các hệ sinh thái, động và thực vật. Khái niệm về đạo đức sinh học đã cung cấp một nền tảng đạo đứctriết học. Đồng thời làm rõ khái niệm và đồng đánh giá đúng nghĩa về hòa bình, sự hài hòa giữa nhân loại và môi trường sinh học. Nó có thể được xem là một khoa học khái niệm có chiều hướng triết học, đồng thời là một hướng hoạt động thực tiễn. Từ góc độ triết học, đạo đức sinh học liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc tôn trọng cuộc sống. Điều quan trọng nhất đối với đạo đức sinh học là ý tưởng triết học rằng bất kỳ cá nhân, bất kỳ hình thức bios nào cũng có giá trị tuyệt đối duy nhất. Ý tưởng triết học cơ bản về sự thống nhất nội tại của cuộc sống con người và các sự sống khác đòi hỏi trách nhiệm của con người đối với tất cả các bios. Sự phát triển của đạo đức sinh học đòi hỏi phải vượt qua những thái độ biểu hiện cho rằng các sinh vật chỉ những công cụ hữu ích, và thái độ xem nhẹ đối với cuộc sống, phủ nhận sự khác biệt chủ yếu giữa chúng sinhvật chất không phải là sinh vật.

Các vấn đề đạo đức sinh học

Đạo đức sinh học đã trở thành một hiện tượng quốc tế thật sự. Đạo đức sinh học có cơ sở và ý nghĩa đối với các yếu tố tôn giáo, chính trị và pháp lý của các nền văn hoá. Là một lĩnh vực nghiên cứu, đạo đức sinh học đã thèm muốn một diễn đàn chính trị quốc tế. Các nhà đạo đức sinh học Tây phương muốn có một tiếng nói chung, phổ quát về sự đúng đắn của luân lý đạo đức chính đáng, bao gồm cả nền tảng của luật pháp và chính sách công, cũng như quyền đạo đức cho các thể chế trong nước và quốc tế để đảm bảo tính đồng nhất của thực tiễn, đảm bảo các quyền cơ bản của con ngườithúc đẩy công bằng xã hội. Chuyên môn về đạo đức học được tìm kiếm rộng rãi trong khuôn khổ của chính sách công và các thể chế. Sự đa dạng đạo đức tôn giáo và văn hoá đang tiến sâu trong đời sống con người. Đạo đức sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Chúng tách biệt với các viễn cảnh y sinh học, đạo đức khu vực, tôn giáo và văn hoá. Nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về trạng thái phản chiếu sinh học trên khắp thế giới ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Một mặt, họ chứng minh rằng sự quan tâm đến đạo đức sinh học lan tỏa và có sức ảnh hưởng trên toàn cầu. Nó cũng rất hữu ích để xem xét một số trục dọc. Theo đó, sự khác biệt đạo đức trong đạo đức sinh học có thể được hiển thị. Chúng tôi đã cố gắng để thảo luận về các vấn đề nghiên cứu tế bào gốc trong đạo đức sinh học. Mục đích của chúng tôi là nêu lên tất cả các vấn đềliên quan đến đạo đức sinh học đang phải đối mặt với thế giới do kết quả của nền công nghệ mới, những quan điểm thế giới khác nhau và sự đóng góp của Phật giáo đến các xã hội khác nhau. Khi thế kỷ 21 mở ra một chân trời mới rộng lớn hơn về các thành tựu khoa học công nghệ, đó là một trong những thách thức lớn nhất mà Phật giáo phải đối mặt. Trong thế giới hiện đại này, việc thiết lập một hệ thống nền tảng đạo đức toàn diện là điều rất cần thiết. Mặc dù, nó vượt quá phạm vi của bất kỳ một nghiên cứu nào để đạt được cả hai mục tiêu này.

Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến một sự bùng nổ về sự quan tâm đến tất cả các khía cạnh trong nghiên cứu Phật giáo. Đặc biệt là các đặc tính cơ bản của Phật giáo, liên quan đến ranh giới của các tông phái đã trở thành một xu thế trong nghiên cứu. Gần đây có các dấu hiệu cho thấy rằng, điều này đang bị lãng quên, cần phải được khắc phục và những sáng kiến đã không đến từ các nghiên cứu Phật học, mà đến từ những nghiên cứu so sánh về đạo đức tôn giáo. (Little, D. and Twiss: 1978). Trong khi Reynolds cho rằng, cần có những tạp chí nghiên cứu Phật học và khoa học mang tính định kỳ để tìm hiểu sâu hơn về sự đóng góp của đạo đức Phật giáo cho các ngành khoa học hiện đại. (Reynolds, 1979). Một số học giả cho rằng phần lớn các nghiên cứu về Phật giáo là dưới hình thức chung chung, và chưa có một nghiên cứu nào có hệ thống nhằm cung cấp cho mọi người một cách cụ thể về đặc tính, cấu trúc chính thức của hệ thống đạo đức Phật giáo làm chuẩn mực để sử dụng trong việc đánh giá các giá trị đạo đức triết học khác. Vấn đề này chúng tôi sẽ giới thiệu một cách cụ thể về quan điểm đạo đức học Phật giáo được trích dẫn trong Kinh tạng để xem xét đối chiếuứng dụng rộng rãi trong việc giải quyết các vấn đề đạo đức trong thời hiện đại.

Đạo đức sinh học và Phật học (Bio -ethics and Buddhism)

Nếu Phật giáo không vượt qua những thách thức của thế giới hiện đại, thì sẽ bị lụi tàn và diệt vong. Phật giáo có thể cung ứng tất cả những thắc mắc và lý giải đến tận cùng về bản chất thật của sự vật hiện tượng trong đó bao gồm cả vấn đề đạo đức sinh học. Khi động lực của hiện đại hoá tập trung, khó có thể duy trì một thái độ dửng dưnghy vọng những vấn đề của hiện đại sẽ biến mất. Sự phát triển toàn cầu trong khoa học và công nghệ y tế có nghĩa là thế giới hiện đại xâm nhập bất cứ điều gì chúng ta thích hay không. Đức Phật đã dạy về sự tồn tại của một đạo luật luân lý vĩnh cửu (dhamma sanātano) và tin rằng qua lý trí, phân tích, suy tư và thiền định, người ta có thể biết được các yêu cầu của luật này trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Đạo đức sinh học là một khía cạnh liên quan trực tiếp đến giáo lý Phật giáo và đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều kinh điển Phật giáo. Lời dạy của Đức Phật về bất bạo động (non-violence) và không xâm lược (non-aggression), không hận thù (non-anger) là sự thể hiện những lẽ thật tuyệt vời của đạo đức sinh học. Khái niệm Brahmavihāras hay ‘Tứ vô lượng tâm’ bao gồm từ (maitrī), bi (karuṇā), hỷ (muditā) và xã (upekkhā) và Lục-độ-ba-la-mật: bố thì (dāna), trì giới (sīla), nhẫn nhục (kṣanti), tinh tấn (vīraya), thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā) có thể được diễn giải để tái cấu trúc đạo đức Phật giáo cho thế giới hiện đại. Hơn nữa mô tả về giới (sīla) đầu tiên xuất hiện trong văn học Phật giáo là không giết hại sinh vật sống (panatipāta vermāni) cũng thể hiệnquan điểm của Phật giáo đối với đạo đức sinh học. Trong kinh Sa-môn-quả (Samaññaphala) của Trường-bộ-kinh (Dīgha Nikāya), có nhắc đến năm loại hạt giống như “hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhánh cây sanh, hạt giống từ đốt cây sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, hạt giống từ hạt giống sanh, (mūlabījam, khandhavījam, phalubījam, aggavījam và vījavījam) và có những hướng dẫn rõ ràng về việc đừng làm hại chúng. “Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống, và các loại cây cỏ.”[3] Tức không làm tổn hại đến bất kỳ sự sống nào, ngay cả những mầm sống mới bắt đầu. Trong kinh Từ bi (Mettā Sutta) của Kinh Tập (Suttanipāta) dạy rằng, những tạo vật thậm chí không có hình dạng của chúng, cũng không được giết hại (bhūta vā sambhevesia vā sabbe sattā bhavantu sukkhitatta). Còn Kinh Pháp cú (Dhammapada) cho rằng: ‘Thân người là khó được, việc duy trì đời sống lại càng khó hơn. Bất kỳ loại giết chóc nào cũng gây ra bất thiện nghiệp, và nhận kết quả là bất thiện. Do đó chịu đau khổthọ báo trong luân hồi sinh tử.’ Trong kinh Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) của Trung-bộ-kinh (Majjhima Nikāya), có một mô tả rõ về nghĩa jāti ‘sinh’. “Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh.”[4] Sinh được mô tả thành bốn loại đó là, noãn sanh, thai sanh, thấp sanhhóa sanh. Noãn sanhchúng sinh sanh ra từ trứng, như gà vịt, chim chóc…, thai sinh là sinh từ bào thai như người, trâu bò…thấp sanh là các loại côn trùng sanh ra từ nơi ẩm thấp, và hóa sanh là sanh do biến hóa, như ong, bướm, tằm, kén… Trong cùng một kinh điển chúng ta tìm thấy mô tả về cái chết. Cái chết đã được định nghĩa là “Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết.”[5] (cutti cavantā bhedo antardhanan maccu marnaṃ kālaṅdiriyā khandhānaṅ bhedo kalavarassanākkhepo jivītindriyassupacchado).

Sinh và chết được kinh điển định nghĩa rõ ràng, đó là tiến trình của quy luật tự nhiên. Mọi hành động của con người can dự và làm trái ngược vào hai tiến trình này được xem là không chánh đáng và cần nghiêm cấm. Như vậy, có rất nhiều hình thức của sự sống được mô tả trong kinh điển. Bất kỳ hình thức của sự sống nào, theo Phật giáo cũng không được giết hại. Phật giáo luôn đề cao tinh thần tôn trọngbảo vệ sự sống kể cả động, thực vật. Sự tôn trọngbảo vệ sự sống này rất hợp với quan niệm của đạo đức sinh học hiện đại.

Như vậy, trên nền tảng đạo đức dựa trên các cấm giới cho thấy đạo đức sinh học hiện đại cũng bao hàm trong các nội dung của đạo đức Phật giáo. Trong các chú giải chi tiết về các giới điều cho người xuất gia cũng như tại gialiên quan mật thiết với các nền tảng đạo đức sinh học. Sự sống, bao gồm cả vật hữu tình và vô tình đều được tôn trọngbảo vệ. Hai yếu tố từ bitrí tuệ luôn là hạt nhân chính yếu để giải quyết tất cả các vấn đề.

 

 Chú thích

[1] Hottois g., Parizeau m.h., Les mots de la bioéthique. Un vocabulaire encyclopédique, De Boeck-Université, coll “Sciences Ethiques Sociétés”, 1993

[2] Trường-bộ-kinh, Kinh Tướng số 30.

[3] Trường-bộ-kinh, Kinh Sa Môn quả.

[4] Trung-bộ- kinh, kinh Chánh kiến.

[5] Ibid,

Nguồn: Stem Cell Research and Bioethical Issues: A Buddhist Perception, by, Dr. Arvind Kumar Singh (Director, International Affairs & Assistant Professor), School of Buddhist Studies & Civilization, Gautam Buddha University.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 323 15-6-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9887)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cảnh báo về nguy cơ hủy diệt nền văn minh hiện nay bởi sự thay đổi khí hậu và để đảo ngược lại quá trình đó, ta cần phải khôi phục niềm tin tâm linh... Jo Confino
(Xem: 9099)
“Tiếng Gọi Từ Bi” (The Call of Compassion) là chủ đề của Lễ Hội Quan Âm năm 2014 tại Trung Tâm Phật Giáo - Chùa Việt Nam, Houston, Texas... Thích Nữ Giới Hương
(Xem: 9988)
Con người là quan trọng hơn hết khi chúng ta biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là Phật và biết thương yêu bình đẳng... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 9241)
Rinpoche ban lời chỉ dạy sau đây cho một tù nhân, là một người mới theo Đạo Phật. Anh ta đã bị kết án tử hình, bản án sẽ được thi hành trong thời gian ba tháng... Việt dịch: Thanh Liên
(Xem: 9678)
Có lần Phật dạy: "Bất cứ ở chỗ nào trên thế gian này, lấy cây cắm xuống thì cũng là chỗ ta bỏ thân mạng"... Thích Thông Phương
(Xem: 12255)
Có bao giờ bạn tự hỏi: Nếu cuôc đời không có phiền não, khổ đau chúng ta có cần tìm con đường tu giải thoát hay không?... Thiện Ý
(Xem: 9589)
“Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ..." Thanh Liên
(Xem: 9644)
"Xuân đi, đóa đóa hoa rơi, Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu, Việc đời trước mắt qua mau, Tuổi già chợt đến trên đầu thế a!” (Mãn Giác)... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 12858)
Phật độ khắp mười phương, nhưng chớ hiểu nhầm hai chữ “tha lực”; rằng Phật sẽ đưa tay “bốc” chúng sanh từ Ta bà đặt lên Cực lạc... Hồ Dụy
(Xem: 9438)
"Nay Ta sẽ nói về con đường dẫn đến Nê-lê (địa ngục) và con đường hướng đến Niết-bàn. Hãy khéo suy nghĩ ghi nhớ điều này, đừng để rơi mất..." Quảng Tánh
(Xem: 10034)
Trong cuộc sống của chúng ta cần phải có nhiều người biết nghĩ đến tình thương để sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia, bao dung người khác khi có việc cần thiết... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 11294)
An Cư là một trong các pháp chế trọng yếu trong đời sống tu hành của Tăng Đoàn Phật giáo... Hạnh Cơ
(Xem: 10269)
Chúng tôi sẽ thuyết một thời pháp cho tất cả Tăng Ni Phật tử nghe, với đề tài Cội gốc sanh tử và cội gốc Niết-bàn... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24568)
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật thùy từ chứng minh gia hộ... Việt nghĩa: HT Thích Huyền Dung, Phổ thơ: Thích Liễu Nguyên
(Xem: 10637)
Quán Thế Âm - Đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền... HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 11940)
Chúc mừng bạn Thiện Trí - Olaf Beuchling, một người bạn trong đời và bây giờ là bạn trong đạo... Nguyên Đạo
(Xem: 9934)
Phật pháp có thể giúp chúng ta có sự hiểu biết chân chính về sự tốt xấu, phải quấy, đúng sai của cuộc sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 14320)
Nội dung câu chuyện chỉ là để nói lên một “Tình Yêu vô nhiễm” của một vị đại đạo sư đã chứng đắc Bồ Đề TâmTrí Huệ Không Tánh... Chiêu Hoàng
(Xem: 13780)
Không tự tỏ mình cho nên sáng, không tự nhận là phải cho nên rực rỡ, không tự kể công cho nên có công, không tự khoe mình cho nên đứng đầu... Lý Minh Tuấn
(Xem: 14906)
Con từ sanh tử bình an, Mang ơn Mẹ đã bao lần cứu con, Cứu từ nước cuốn, sống còn, Cứu từ máu chảy, thân con năm nào... Thích Liễu Nguyên dịch nghĩa & tác thơ
(Xem: 10140)
Chúng tôi có thể đối chiếu hai thái độ khác nhau giữa quan điểm Tây Phươngquan điểm truyền thống Á Đông đối với Phật Giáo... Nguyên tác tiến sĩ Peter D. Santina; Thích Tâm Quang dịch Việt
(Xem: 10265)
Sau mấy ngày họp mặt tại Hamburg, 8 chị em chúng tôi kéo nhau về chùa Viên Giác, Hannover để dự lễ Rằm Tháng Giêng... Phương Quỳnh Diệu Thiện
(Xem: 9826)
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết?... Hồ Minh Ngọc
(Xem: 13194)
Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm... Quảng Tánh
(Xem: 8911)
"Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không?"... Trần Xuân Hải dịch
(Xem: 10497)
Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc... Nhất Linh; Khái Hưng
(Xem: 9395)
Con người thường bị cảm giác khổ vui làm chủ, khi mắt thấy sắc đẹp vừa ý liền bị cảm giác thọ vui thu hút... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 9191)
Với cái thấy bất nhịtương đãi, Phật giáo Duy Biểu có thể buông bỏ tính cách quyền thừa lâu nay của mình để trở nên một đạo Bụt Đại thừa trọn vẹn... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 11567)
Khái quát chia làm 9 thành phần như sau: Thiền sư, Kinh sư, Luật sư, Pháp sư, Giáo sư, Giảng sư, Kiến trúc sư, Y sư và Cứu tế sư... Thích Phước Sơn
(Xem: 11363)
Thất tình lục dục là bảy thứ tình cảm được biểu lộ ra bên ngoài và là sáu việc ham muốn của một con người. Đó là nói theo căn bản... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 10873)
Mỗi người trong chúng ta, ai sinh ra trong cuộc đời nầy cũng đều có một nghiệp quả khác nhau... HT Thích Như Điển
(Xem: 10158)
Tích tập là duyên sinh tụ hội của vạn pháp, và buông xả là sự lặng thinh tuyệt đối của không gian vô định như thuở nào vô thủy vô chung... Thích Phổ Huân
(Xem: 12538)
Biểu tượng cho hạnh phúcan lạc là nụ cười của Phật Di lặc, người Mỹ gọi một cách đầy tính dân gian gần gũi là ông Phật Vui Sướng, Ông Hạnh Phúc (Happy Buddha), hay ông Phật Cười (Laughing Buddha)… Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 8980)
Nguyện cho tất cả chúng sinh nhổ bật hết mọi cội rễ sân hận và oán thù để trở thành hiện thân của tình thương bao la... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 16202)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 9750)
Đã là con chim, chiếc lá, Chim phải hót, lá phải xanh, Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình... Tuệ Đạt
(Xem: 9475)
Mỗi lần tết đến, chúng ta ôn lại những việc trong năm, những đoạn đường đã qua, những sai lầm thiếu sót và những tạm thời thành tựu... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10605)
Những lời giảng dạy của bảy Đức Phật, từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong giới kinh giống như tiêu chỉ nguyệt... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 10727)
"Tinh tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến, bỏ lại sau lưng con ngựa gầy hèn"... Như Đức
(Xem: 9191)
Vừa qua, chúng tôinhân duyên được tháp tùng với Thầy Phương Trượng chùa Viên Giác, theo chương trình Tu họcHành hương Thái Lan & Miến Điện... Trần Đan Hà
(Xem: 10248)
Kỷ niệm chuyến hành hương Thái Lan và Miến Điện tháng 12 năm 2013 trong phái đoàn HT Thích Như Điển ở Âu Châu... Hoa Lan - Thiện Giới
(Xem: 11599)
Malala cũng từng được đề cử là ứng viên Giải Nobel Hòa Bình năm 2013 và là ứng viên trẻ nhất cho đến nay, chỉ mới 17 tuổi... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 9981)
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.” Giọng đọc: Hạnh Tuệ
(Xem: 9446)
Vậy thì một người Phật tử Việt Nam (xuất gia tu sĩtại gia cư sĩ) ứng xử như thế nào trong tư cáchvai trò một người Phật tử là công dân nước Việt? Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13760)
Nguyên tác: Stages of Meditation, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch: Geshe Lobsang Jordhen, Losang Choephel Ganchenpa, Jeremy Russel; Việt dịch: Tuệ Uyển
(Xem: 15457)
Một số nhà sử học tin rằng ngài đã dành 17 năm trong buổi thiếu thời – từ lúc 13 đến 30 - ở Ấn Độ học hỏi Phật Pháp và kinh Vệ Đà... Tuệ Uyển
(Xem: 16961)
Mê tínu mê không hiểu biết chân chính, tin những điều không đúng sự thật, tin mù quáng; phần nhiều là những việc về tinh thần, nhưng cũng ảnh hưởng về vật chất, mê lầm tưởng đó là sự thực... Toàn Không
(Xem: 9791)
Trong một cuốn sách mới xuất bản có tiêu đề là “Trở Lại Kiếp Sống” (Return to Life), tác giả Jim B Tucker kể một số câu chuyện về các trẻ em có khả năng nhớ lại tiền kiếp... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 9962)
Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 8167)
Ăn uống hàng ngày là cách tốt nhất để chuyển các dưỡng chất từ bên ngoài vào nuôi dưỡng và phát triển cơ thể, phục hồi sức lực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant