Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Hóa Stress

16 Tháng Bảy 201901:12(Xem: 5089)
Chuyển Hóa Stress

CHUYỂN HÓA STRESS


Sri Dhammananda
 
Thích Trung Hữu 

Sự Buông Xuống Sau Cùng

 

Stress là từ được mượn từ bộ môn vật lý học và kỹ thuật, nghĩa chính xác của nó là “tạo một lực đủ mạnh lên một vật để làm cho vật đó biến dạng”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tâm lý, tâm thần thì stress liên quan đến sự phản ứng của một người (về thể chấtcảm xúc) đối với áp lực từ môi trường cũng như từ chính bản thân.

Có hai loại stress căn bản. Một là stress liên quan đến sự mất mát như mất người thân yêu, mất việc làm hay mất sự tôn kính đối với bản thân. Hai là stress liên quan đến sự đe dọa đối với tình trạng, mục tiêu, sức khỏe hay an toàn

Stress là một phần tất yếu của cuộc sống, nó làm cho ta lúc nào cũng bị khích động (căng thẳnglo lắng). Tình trạng có thể vượt quá sức chịu đựng của con người, gây đau khổ về thể chất hoặc tinh thần hoặc cả hai. Stress có thể là kết quả của những vấn đề như sự thay đổi, những rắc rối của cá nhân, bịnh tật, cái chết của vợ chồng hay bè bạn, ly thân, ly dị, vấn đề tình dục, thay đổi chỗ ở, bỏ nhà đi hoang, mang thai ngoài ý muốn, bị sa thải, thất nghiệp, quan hệ không tốt với cấp trên, đồng nghiệp… 

Mỗi giai đoạn của cuộc đời sẽ có những loại stress khác nhau. Trẻ em thì gặp những vấn đề từ gia đình và trường học, như cha mẹ bất hòa, áp lực của việc học, quan hệ không tốt với thầy cô và bạn bè. Khi bước vào cao đẳng hay đại học thì phải đối mặt với việc lựa chọn ngành học hay lo lắng về công ăn việc làm sau khi ra trường. Rồi vấn đề hôn nhânsự nghiệp, v.v… 

Stress không chỉ là vấn đề tinh thần hay cảm xúc mà nó còn có thể dẫn đến những căn bịnh từ nhẹ cho tới chết người như loét đường tiêu hóa, rối loạn tiền đình, cao huyết áp, đột quỵ. Nếu tình trạng stress kéo dài sẽ làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể làm cho cơ thể không còn đủ khả năng chống lại các loại bịnh truyền nhiễm. Các chuyên gia còn cảnh báo rằng tình trạng stress nặng và kéo dài có thể gây ra cả bịnh ung thư.

Stress có nhiều tác hại như thế cho nên chúng ta cần phải làm sao để quản lý tâm trạng tiêu cực này. Những việc chúng ta cần làm để tránh hay giảm thiểu stress là phải ăn uống khoa học, ngủ đủ giấc, tập thể dục mỗi ngày và dành thời gian làm những điều chúng ta thích. Không hút thuốc và lạm dụng các chất kích thích như bia, rượu, ma túy. Đối với những người quá nhạy cảm, dễ bị ngoại cảnh tác động thì cần phải cố gắng tránh những nguyên nhân gây ra stress cũng như học những phương pháp thư giãn và cân bằng tâm lý. Đặc biệt là những bước thực tập/ tu tập sau đây của Phật giáo có thể giúp chúng ta quản lý, điều tiết được những cảm xúc tiêu cực như stress đồng thời đưa đến hạnh phúc lâu dài.

Phát triển đạo đức

Phật giáo có những phương pháp để giải tỏa stress và từng bước đem lại hạnh phúc, trong đó giữ gìn 5 giới cấm là điều đầu tiên cần phải làm. Năm giới bao gồm không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Một trong những nguyên nhân làm cho con người bị căng thẳng, lo lắng, bất an là do mặc cảm tội lỗi, và năm giới này chính là để giúp người ta tránh được mặc cảm đó. Trong kinh Pháp cúĐức Phật dạy rằng, người làm ác sẽ đau khổ ở đời này và đời sau

Ngược lại, người làm lành sẽ hạnh phúc ở đời này và đời sau. Phật giáo nhấn mạnh rằng hành vi bất thiện sẽ làm tăng thêm stress trong khi việc làm thiện sẽ đem lại cảm giác an vui. Ngoài 5 giới ra, Phật giáo còn khuyến khích Phật tử tu thêm 3 giới nữa là không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát; không nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ và không được ăn quá giờ ngọ (Bát quan trai giới). Giữ 8 giới này nhằm rèn luyện chúng ta sống giản dị, chỉ sở hữu những gì chúng ta cần hơn là chúng ta muốn. Một cuộc sống đơn giản với ít sở hữu và biết đủ là điều rất được tán thán trong Phật giáo. Ngược lại, tích trữ và hám lợi sẽ làm cho người ta bị căng thẳng.

Phòng hộ các giác quan

Bước tiếp theo của quá trình tu tập để đạt được hạnh phúc là phòng hộ và làm chủ các giác quan. Nếu như các giác quan không được phòng hộ thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thứ rắc rối. Ví dụ như khi mắt thấy những hình tướng ưa thích thì sinh tham ái và đắm nhiễm, còn thấy những hình tướng không ưa thích thì ta chán ghét, sân si. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Nếu không tu tập để làm chủ các giác quan thì chúng ta sẽ rất dễ dàng bị tác động (ưa và không ưa thích) bởi các đối tượng bên ngoài. Nếu chúng ta để cho các giác quan sai sử chúng ta thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều phiền phức

Ngược lại nếu làm chủ được các giác quan thì chúng ta sẽ có được niềm vui thuần khiết. Đó là niềm vui trong sáng từ nội tâm không bị cảnh trần làm cho ô nhiễm và niềm vui của một người tự do không bị ai (các giác quan và đối tượng của giác quan) sai khiến. Những niềm vui do giác quan đem lại thường kéo theo sự căng thẳng (stress) bất mãn, còn niềm vui nội tâm thì không bị như vậy mà chỉ có sự bình anmãn nguyện mà thôi.

Thiền định

Bước thứ ba để kiểm soát stress và tạo ra hạnh phúctu tập thiền định. Cũng như chúng ta chăm sóc và nuôi dưỡng cơ thể bằng những thức ăn thích hợp và chế độ y tế đúng mức, tinh thần của chúng ta cũng cần sự quan tâmnuôi dưỡng như vậy. Khi cái tâm chưa được huấn luyện thì nó rất manh động, nhưng khi nó được điều phục và làm cho vững chãi thì nó sẽ mang lại hạnh phúc lớn. Có hai loại thiền căn bảnthiền Chỉ (Samatha) và thiền Minh sát (Vipassana). 

Thiền Chỉ là cách tập trung tư tưởng để tịnh chỉ vọng tưởng, còn thiền Minh sátquán sát và thấu hiểu bản chất thật của các hiện tượng của thân và tâm. Cả hai loại thiền này đều rất hữu ích để vượt qua stress. Trong kinh Đức Phật đã đưa ra những ví dụ để minh họa cho lợi ích của thiền trong việc giảm thiểu stress như sau. Ví như một người mượn nợ để kinh doanh. Anh ta kinh doanh thành công và không chỉ trả được hết nợ mà còn có dư ra một số vốn để tiếp tục kinh doanh. Cảm giác của anh ta lúc này rất nhẹ nhõm và khoái lạc. Thiền cũng đem lại cho hành giả cảm giác thơ thới như vậy. 

Ví dụ thứ hai diễn tả một người chịu đựng căn bịnh trầm kha trong một thời gian dài. Sau đó nhờ chữa trị mà anh ta khỏi bịnh, khỏe mạnh và có thể sinh hoạt lại bình thường. Cảm giác anh ta lúc này là rất tuyệt vời. Ví dụ thứ ba nói về cảm giác của một người tù được thả ra sau một thời gian dài bị giam hãm trong nhà giam. Ví dụ thứ tư là cảm giác của một người thoát kiếp nô lệ, được làm người tự do. Và ví dụ thứ năm nói về một người bị lạc đường trong sa mạc không có nước uống và thức ăn. Sau đó được cứu thoáttrở về nơi an ổn. Thiền định cũng làm cho người ta thấy an ổn như vậy trước những biến động của cuộc sống, những căng thẳng, bất an, lo lắng của hệ thần kinh.

Phát triển cảm xúc tích cực

Những cảm xúc tích cực như từ, bi, hỷ, xả có khả năng điều trị tình trạng stress của con người. Mối quan hệ không tốt của bản thân với người khác và hoàn cảnh xung quanh là một trong những nguyên nhân gây ra stress ở gia đìnhcông sở. Tâm Từ là một thái độ tích cực mà một người có thể tu tập để đem lại an vui cho mình và người khác, tạo nên mối quan hệ lành mạnh và hài hòa giữa người và người với nhau. Bi là lòng thương xót đối với người khác trong cơn hoạn nạn, cứu giúp họ thoát khỏi khổ đau. Hỷ nói cho đủ là tùy hỷ, tức vui với cái vui, cái được, cái thành tựu của người khác. Đây là điều thật ra không phải dễ làm với bản tính hay đố kỵ của con người nói chung. Nơi nào có đố kỵ nơi đó không thể có sự đoàn kết. Không đoàn kết thì sẽ không có sự tiến bộ

Do đó tu tập tâm tùy hỷ có thể giúp cho con ngườicộng đồng tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xả không có nghĩa là từ bỏ không cần thứ gì mà là thái độ bình thản trước sự thăng trầm của cuộc sống. Có 8 yếu tố thăng trầm, bao gồm “lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc” (hưng thịnh và suy tàn, hủy nhục và tôn vinh, ca ngợichỉ trích, khổ đau và hạnh phúc). Nếu một người có thể tu tập, rèn luyện bản thân mình để có thể giữ được thái độ bình thản, không kiêu căng cũng như không chán nản khi đối mặt với 8 ngọn gió này thì họ có thể tránh được tâm trạng stress và sống được một cuộc đời giản đơn với sự bình anmãn nguyện.

Chúng ta không thể thay đổi thế giới để làm cho chúng ta hạnh phúc nhưng chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình đối với thế giới để không bị tác động bởi những điều bất như ý xảy ra xung quanh ta. Và Phật pháp đã dạy cho chúng ta cái cách để làm được điều đó, như những bước đã trình bày trên đây.


Sri Dhammananda
Thích Trung Hữu
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 652)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 770)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 684)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 662)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 727)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 675)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 914)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 709)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 762)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 897)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1382)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 908)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 935)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 866)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 756)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 709)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 720)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 594)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1243)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1126)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1093)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1058)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1168)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1106)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1190)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1120)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 995)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1031)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1106)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1071)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1180)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1079)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1154)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1140)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1069)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1131)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1106)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1102)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1121)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1050)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1240)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1121)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1032)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 979)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1009)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1024)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1155)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 913)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant