Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Hóa Stress

16 Tháng Bảy 201901:12(Xem: 5286)
Chuyển Hóa Stress

CHUYỂN HÓA STRESS


Sri Dhammananda
 
Thích Trung Hữu 

Sự Buông Xuống Sau Cùng

 

Stress là từ được mượn từ bộ môn vật lý học và kỹ thuật, nghĩa chính xác của nó là “tạo một lực đủ mạnh lên một vật để làm cho vật đó biến dạng”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tâm lý, tâm thần thì stress liên quan đến sự phản ứng của một người (về thể chấtcảm xúc) đối với áp lực từ môi trường cũng như từ chính bản thân.

Có hai loại stress căn bản. Một là stress liên quan đến sự mất mát như mất người thân yêu, mất việc làm hay mất sự tôn kính đối với bản thân. Hai là stress liên quan đến sự đe dọa đối với tình trạng, mục tiêu, sức khỏe hay an toàn

Stress là một phần tất yếu của cuộc sống, nó làm cho ta lúc nào cũng bị khích động (căng thẳnglo lắng). Tình trạng có thể vượt quá sức chịu đựng của con người, gây đau khổ về thể chất hoặc tinh thần hoặc cả hai. Stress có thể là kết quả của những vấn đề như sự thay đổi, những rắc rối của cá nhân, bịnh tật, cái chết của vợ chồng hay bè bạn, ly thân, ly dị, vấn đề tình dục, thay đổi chỗ ở, bỏ nhà đi hoang, mang thai ngoài ý muốn, bị sa thải, thất nghiệp, quan hệ không tốt với cấp trên, đồng nghiệp… 

Mỗi giai đoạn của cuộc đời sẽ có những loại stress khác nhau. Trẻ em thì gặp những vấn đề từ gia đình và trường học, như cha mẹ bất hòa, áp lực của việc học, quan hệ không tốt với thầy cô và bạn bè. Khi bước vào cao đẳng hay đại học thì phải đối mặt với việc lựa chọn ngành học hay lo lắng về công ăn việc làm sau khi ra trường. Rồi vấn đề hôn nhânsự nghiệp, v.v… 

Stress không chỉ là vấn đề tinh thần hay cảm xúc mà nó còn có thể dẫn đến những căn bịnh từ nhẹ cho tới chết người như loét đường tiêu hóa, rối loạn tiền đình, cao huyết áp, đột quỵ. Nếu tình trạng stress kéo dài sẽ làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể làm cho cơ thể không còn đủ khả năng chống lại các loại bịnh truyền nhiễm. Các chuyên gia còn cảnh báo rằng tình trạng stress nặng và kéo dài có thể gây ra cả bịnh ung thư.

Stress có nhiều tác hại như thế cho nên chúng ta cần phải làm sao để quản lý tâm trạng tiêu cực này. Những việc chúng ta cần làm để tránh hay giảm thiểu stress là phải ăn uống khoa học, ngủ đủ giấc, tập thể dục mỗi ngày và dành thời gian làm những điều chúng ta thích. Không hút thuốc và lạm dụng các chất kích thích như bia, rượu, ma túy. Đối với những người quá nhạy cảm, dễ bị ngoại cảnh tác động thì cần phải cố gắng tránh những nguyên nhân gây ra stress cũng như học những phương pháp thư giãn và cân bằng tâm lý. Đặc biệt là những bước thực tập/ tu tập sau đây của Phật giáo có thể giúp chúng ta quản lý, điều tiết được những cảm xúc tiêu cực như stress đồng thời đưa đến hạnh phúc lâu dài.

Phát triển đạo đức

Phật giáo có những phương pháp để giải tỏa stress và từng bước đem lại hạnh phúc, trong đó giữ gìn 5 giới cấm là điều đầu tiên cần phải làm. Năm giới bao gồm không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Một trong những nguyên nhân làm cho con người bị căng thẳng, lo lắng, bất an là do mặc cảm tội lỗi, và năm giới này chính là để giúp người ta tránh được mặc cảm đó. Trong kinh Pháp cúĐức Phật dạy rằng, người làm ác sẽ đau khổ ở đời này và đời sau

Ngược lại, người làm lành sẽ hạnh phúc ở đời này và đời sau. Phật giáo nhấn mạnh rằng hành vi bất thiện sẽ làm tăng thêm stress trong khi việc làm thiện sẽ đem lại cảm giác an vui. Ngoài 5 giới ra, Phật giáo còn khuyến khích Phật tử tu thêm 3 giới nữa là không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát; không nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ và không được ăn quá giờ ngọ (Bát quan trai giới). Giữ 8 giới này nhằm rèn luyện chúng ta sống giản dị, chỉ sở hữu những gì chúng ta cần hơn là chúng ta muốn. Một cuộc sống đơn giản với ít sở hữu và biết đủ là điều rất được tán thán trong Phật giáo. Ngược lại, tích trữ và hám lợi sẽ làm cho người ta bị căng thẳng.

Phòng hộ các giác quan

Bước tiếp theo của quá trình tu tập để đạt được hạnh phúc là phòng hộ và làm chủ các giác quan. Nếu như các giác quan không được phòng hộ thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thứ rắc rối. Ví dụ như khi mắt thấy những hình tướng ưa thích thì sinh tham ái và đắm nhiễm, còn thấy những hình tướng không ưa thích thì ta chán ghét, sân si. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Nếu không tu tập để làm chủ các giác quan thì chúng ta sẽ rất dễ dàng bị tác động (ưa và không ưa thích) bởi các đối tượng bên ngoài. Nếu chúng ta để cho các giác quan sai sử chúng ta thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều phiền phức

Ngược lại nếu làm chủ được các giác quan thì chúng ta sẽ có được niềm vui thuần khiết. Đó là niềm vui trong sáng từ nội tâm không bị cảnh trần làm cho ô nhiễm và niềm vui của một người tự do không bị ai (các giác quan và đối tượng của giác quan) sai khiến. Những niềm vui do giác quan đem lại thường kéo theo sự căng thẳng (stress) bất mãn, còn niềm vui nội tâm thì không bị như vậy mà chỉ có sự bình anmãn nguyện mà thôi.

Thiền định

Bước thứ ba để kiểm soát stress và tạo ra hạnh phúctu tập thiền định. Cũng như chúng ta chăm sóc và nuôi dưỡng cơ thể bằng những thức ăn thích hợp và chế độ y tế đúng mức, tinh thần của chúng ta cũng cần sự quan tâmnuôi dưỡng như vậy. Khi cái tâm chưa được huấn luyện thì nó rất manh động, nhưng khi nó được điều phục và làm cho vững chãi thì nó sẽ mang lại hạnh phúc lớn. Có hai loại thiền căn bảnthiền Chỉ (Samatha) và thiền Minh sát (Vipassana). 

Thiền Chỉ là cách tập trung tư tưởng để tịnh chỉ vọng tưởng, còn thiền Minh sátquán sát và thấu hiểu bản chất thật của các hiện tượng của thân và tâm. Cả hai loại thiền này đều rất hữu ích để vượt qua stress. Trong kinh Đức Phật đã đưa ra những ví dụ để minh họa cho lợi ích của thiền trong việc giảm thiểu stress như sau. Ví như một người mượn nợ để kinh doanh. Anh ta kinh doanh thành công và không chỉ trả được hết nợ mà còn có dư ra một số vốn để tiếp tục kinh doanh. Cảm giác của anh ta lúc này rất nhẹ nhõm và khoái lạc. Thiền cũng đem lại cho hành giả cảm giác thơ thới như vậy. 

Ví dụ thứ hai diễn tả một người chịu đựng căn bịnh trầm kha trong một thời gian dài. Sau đó nhờ chữa trị mà anh ta khỏi bịnh, khỏe mạnh và có thể sinh hoạt lại bình thường. Cảm giác anh ta lúc này là rất tuyệt vời. Ví dụ thứ ba nói về cảm giác của một người tù được thả ra sau một thời gian dài bị giam hãm trong nhà giam. Ví dụ thứ tư là cảm giác của một người thoát kiếp nô lệ, được làm người tự do. Và ví dụ thứ năm nói về một người bị lạc đường trong sa mạc không có nước uống và thức ăn. Sau đó được cứu thoáttrở về nơi an ổn. Thiền định cũng làm cho người ta thấy an ổn như vậy trước những biến động của cuộc sống, những căng thẳng, bất an, lo lắng của hệ thần kinh.

Phát triển cảm xúc tích cực

Những cảm xúc tích cực như từ, bi, hỷ, xả có khả năng điều trị tình trạng stress của con người. Mối quan hệ không tốt của bản thân với người khác và hoàn cảnh xung quanh là một trong những nguyên nhân gây ra stress ở gia đìnhcông sở. Tâm Từ là một thái độ tích cực mà một người có thể tu tập để đem lại an vui cho mình và người khác, tạo nên mối quan hệ lành mạnh và hài hòa giữa người và người với nhau. Bi là lòng thương xót đối với người khác trong cơn hoạn nạn, cứu giúp họ thoát khỏi khổ đau. Hỷ nói cho đủ là tùy hỷ, tức vui với cái vui, cái được, cái thành tựu của người khác. Đây là điều thật ra không phải dễ làm với bản tính hay đố kỵ của con người nói chung. Nơi nào có đố kỵ nơi đó không thể có sự đoàn kết. Không đoàn kết thì sẽ không có sự tiến bộ

Do đó tu tập tâm tùy hỷ có thể giúp cho con ngườicộng đồng tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xả không có nghĩa là từ bỏ không cần thứ gì mà là thái độ bình thản trước sự thăng trầm của cuộc sống. Có 8 yếu tố thăng trầm, bao gồm “lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc” (hưng thịnh và suy tàn, hủy nhục và tôn vinh, ca ngợichỉ trích, khổ đau và hạnh phúc). Nếu một người có thể tu tập, rèn luyện bản thân mình để có thể giữ được thái độ bình thản, không kiêu căng cũng như không chán nản khi đối mặt với 8 ngọn gió này thì họ có thể tránh được tâm trạng stress và sống được một cuộc đời giản đơn với sự bình anmãn nguyện.

Chúng ta không thể thay đổi thế giới để làm cho chúng ta hạnh phúc nhưng chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình đối với thế giới để không bị tác động bởi những điều bất như ý xảy ra xung quanh ta. Và Phật pháp đã dạy cho chúng ta cái cách để làm được điều đó, như những bước đã trình bày trên đây.


Sri Dhammananda
Thích Trung Hữu
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2480)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2298)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2616)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2389)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2268)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2486)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2494)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2516)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3004)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2608)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2925)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2542)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3998)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2995)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3272)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2475)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2760)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2830)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2585)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2456)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2646)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2689)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2523)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2105)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2556)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2021)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2781)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2679)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2464)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3249)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant