Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Không Phải Đợi Đến Khi Hư Hỏng Mới Tu

04 Tháng Tám 201910:53(Xem: 4276)
Không Phải Đợi Đến Khi Hư Hỏng Mới Tu

KHÔNG PHẢI ĐỢI ĐẾN KHI HƯ HỎNG MỚI TU 
Thiện Quả Đào Văn Bình
 

Ngạn ngữ có câu “Nước đến chân mới nhảy” hoặc Miền Nam có câu “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” để ám chỉ lối sống, lối hành xử buông thả, không lo xa, không tiên liệu, đợi đến khi tai  họa, biến cố xảy ra thì mới quýnh lên, thì ôi thôi đã quá muộn màng. Điều này cũng giống như  chư Tổ dạy, “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”.

Sự băng hoại xã hội, suy giảm đạo đức gia đình hiện nay đang ở mức báo động. Chính quyền, các nhà đạo đức, các nhà giáo dục và phụ huynh đang lo lắng và tìm phương chữa trị. Đã từ lâu, người ta phó thác công việc giáo dục thanh thiếu niên cho học đường và gia đình. Nhưng hình như gia đình và học đường gần như bất lực trong công việc này. Và cũng từ lâu người ta quên mất sứ mạng giáo dục tuyệt vời của các ngôi chùa và nhất là giáo lý của Đức Phật. Người ta quên mất Đức Phật là một nhà mô phạm, một nhà giáo dục vĩ đại có thế giáo hóa mọi tầng lớp- từ tuổi trẻ đến lão niên, từ thứ dân đến vua quan, từ Phật tử sơ cơ đến hàng Bồ Tát, từ cõi Cõi Trời đến cõi Người.

Một câu hỏi đặt ra là tại sao tại một đất nước mà trong nhiều triều đại, Phật Giáo đã trở thành quốc đạo mà lại có câu ngạn ngữ, “Trẻ vui nhà, già vui chùa”? Tức là già gần đất xa trời mới tìm đến chùa để an ủi tinh thần, cho bớt cô đơn, có bầu có bạn và nhất là khi chết mong được về với Phật Tổ. Còn tuổi trẻ thì phải ở nhà để vui chơi, học hành, lo công việc…đến chùa chẳng ích lợi gì. Ta có thể giải thích tâm lý phổ biến này như sau:

-Ngày xưa xã hội ta sống bằng nông nghiệp, đời sống khép kín trong lũy tre làng. Chẳng có phòng trà ca vũ, quán nhậu, bia ôm, hát karaoke, quán Internet quán bar, xì ke ma túy cũng chưa có…cho nên trẻ con cũng chẳng có điều kiện để hư hỏng…cho nên chẳng cần đến chùa để trau giồi đạo đức làm gì.

-Ở chùa, sư cụ, sư ông, sư bác, sư cô đầu thì trọc, khóac manh áo nâu sồng, tối ngày tụng kinh gõ mõ, đời sống tương chao dưa muối, đọc tụng toàn kinh điển cao siêu…đời sống và khung cảnh lạc lõng với đời như thế thì làm sao thích nghi với tuổi trẻ?

-Nhiều phụ huynh cho rằng trẻ con cần tinh khôn, nhiều khi phải ma mãnh, mánh mung để ra đời không thua thiệt với người ta. “Hiền như Bụt” thì bị người ta bắt nạt. Còn Từ-Bi-Hỷ-Xả là tiêu cực, yếu đuối. Phải triệt hạ đối thủ để vươn lên chứ. Đời này là tranh đoạt tiền bạc, ái tìnhdanh lợi. Gửi con đến chùa làm cho nó ngu đần và yếu đuối đi thì làm sao sống nổi với đời?

-Chùa từ ngàn xưa đến giờ chùa chẳng bao giờ có gì vui chơi, giải trí cho trẻ nhỏ. Ngoại trừ Miền Nam từ khoảng 1950 có tổ chức Gia Đình Phật Tử , còn thì chùa nào cũng vậy, toàn là ông già bà lão. Trong khi đó tuổi thơ là tuổi hiếu động. Ngày xưa thì chạy nhảy la hét, đánh đinh đánh đáo, câu cá, thả diều, bắn chim. Trẻ con ở quê thì chăn trâu thổi sáo. Rồi văn minh hơn nữa là đá banh, đá bóng, cưỡi xe đạp. Còn ngày nay có cả ngàn thú vui, thể thao, giải trí, phim ảnh hấp dẫn tuổi trẻ mà hầu hết đều khích động dâm ô, bạo lực.   

            Nhưng tình thế đã đổi thay. Ngày nay, với sự băng hoại xã hội và thảm họa xảy ra từ giới trẻ, lề thói suy nghĩ như trên hoàn toàn sai và rất nguy hiểm, bởi vì:

-Dạy cho trẻ con tinh khôn, lanh lợi để vào đời là một lối suy nghĩ vô cùng nguy hiểm. Ngày nay trẻ con quá tinh khônlanh lợi tại sao gia đình, thầy cô lo lắng, xã hội bất an? Phải dạy cho con các đức tính thật thà, lòng hiếu thảo, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm, thái độ bao dung, biết thương người và biết bảo vệ môi trường. Đó là những đức tính cao quý để con mình vươn lên, thành đạt lớn lao trong danh dự và là tấm gương sáng cho xã hội. Khôn lanh, tranh đoạt lợi danh với đời là con đường “ma đạo” không bền vững rồi kết cuộc chỉ là cay đắng cho bản thângia đình.

-Ngày nay, chư tăng ni, với sự chỉ đạo của Giáo Hội và trước trào lưu suy đồi đạo đức toàn cầu đã hăng hái nhập thế, đem đạo Phật vào đời để cứu vãn gia đình và đất nước. Chư tăng ni ngày nay có đủ trình độ học vấn, kiến thức ngoài đời cũng như đạo đức bản thân để vừa làm tấm gương, vừa giảng dạy cho thanh thiếu niên. Cứ thử nghe và nhìn vào các buổi giảng pháp của các giảng sư lớn của Việt Nam chúng ta sẽ thấy kiến thức của các vị này như thế nào. Tinh túy của đạo Phật - nổi bật nhất là Trí Tuệ, Từ-Bi-Hỷ-Xả vẫn còn nguyên vẹn, nhưng lối giảng pháp đã có khác. Đối tượng để giáo hóa ưu tiên không còn là ông già bà lão mà là thế hệ trẻ. Mục tiêu trước mắt không phải là Thiên-Đàng, Địa Ngục hay Vãng Sinh… mà là cuộc sống an vui, hạnh phúc, đạo đức cho gia đình, xã hội và đất nước. Đạo Phật đã “lột xác” đã hiện đại hóa mà chúng ta không thấy.

-Ngay từ Thế Kỷ XVI khi khoa học phát triển các nhà đạo đức đã nói, “Khoa học mà không lương tâm là sự phá sản của tâm hồn”. Chỉ cần một lãnh đạo tham vọng cuồng điên hay hiếu chiến, bom nguyên tử sẽ hủy diệt trái đất và cả loài người này. Như vậy đạo đức phải kiềm chế khoa học chứ không phải khoa học sai khiến đạo đức. Luật pháp chỉ có thể trừng phạt hành vi phạm tội nhưng không kiềm chế được thú tính của con người. Chỉ có đạo đức mới kiềm chế được thú tính của con người.

 

-Cả đời lo toan cho nó trở thành bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên thượng thặng…nhưng nó lại là đứa con bất hiếu thì đúng là nghiệp chướng. Cứ thử nhìn vào các thảm họa xã hội như con cái bất hiếu, giết cha giết mẹ, giết anh giết em, giết bà nội để lấy tiền chơi games, đá gà. Rồi thì bạn bè giết nhau trong bữa nhậu, trong quán ăn, quán hát Karaoke chỉ vì một cái nhìn hay va chạm nhỏ nhặt. Nếu như những đứa trẻ này hay những thanh niên này được học Phật từ thuở ấu thơ về đức tính Nhẫn Nhục, Đạo Hiếu, Vị Tha thì thảm họa đâu đến nỗi xảy ra?

-Cả đời lo toan, chạy chọt cho nó trở thành quyền cao chức trọng. Thế nhưng nó lại tham nhũng, bòn rút của công, ăn chặn tiền của dân, dung dưỡng cho bọn làm ăn bất chính, ăn chơi trác táng… cuối cùng vào tù, tài sản mất hết, ô nhục cho gia đình. Nếu như cha mẹ biết gửi con đến chùa dạy nó về lòng Tham, về Nhân Quả thì thảm họa đâu đến nỗi xảy ra?

-Cả đời lo toan, vận động cho nó trở thành tổng giám đốc các ngân hàng, công ty lớn…nhưng nó lại lấy tiền của trương chủ kinh doanh bất hợp pháp, chế săng giả, thuốc giả, đồ dỏm để lường đảo chính quyền và giới tiêu thụ… cuối cùng tài sản mất hết, kết thúc cuộc đời trong lao lý. Nếu như cha mẹ biết gửi con đến chùa dạy nó về lòng Tham, về Nhân Quả thì thảm họa đâu đến nỗi xảy ra?

-Vào xem các chương trình Phật Pháp Nhiệm Màu của Chùa Hoằng Pháp và đọc trên trang tin Phật Giáo Việt Nam về trương hợp của hai người đàn bà đã lăn lộn trong giới buôn hương bán phấn trong các quán nhậu ôm, bia ôm. Đã từng làm má-mì (đọc chại từ tiếng mammy của Mỹ tức tiếng trẻ con gọi mẹ) tức nghề làm tú bà, tài-pán hay nuôi em. Một bà đã từng tàn hại cuộc đời của bốn người đàn ông, một bà đã làm bao gia đình tan nát đổ vỡ. Cuối cùng sao hồi tâm phản tỉnh biết quay về với Phật pháp để sống đời lương thiện. Rồi chuyện một ông đã từng vào tù ra khám, đâm thuê chém mướn, chặt đứt cánh tay của một người. Nay chán cảnh đời “gió tanh mưa máu” quay về với Phật pháp, biết tạc tượng Phật, sống đời lương thiện, giúp trẻ bụi đời. Đọc và xem những hình ảnh này tôi cảm động vì những những người này đã biết tìm về nẻo lương thiện cho những ngày tháng còn lại của đời mình. Thế nhưng tôi không khỏi bùi ngùi thương cho các nạn nhân của họ và đặt một câu hỏi rất lẩm cẩm: “Giả dụ những người này biết tu từ thuở nhỏ thì có phải bao đau thương nghiệt ngã đã không xảy?” Dù muốn dù không, họ đã tạo nghiệp, tạo bao đau đớn cho người khác. Dù ngày nay biết nương nhờ cửa Phật nhưng nghiệp vẫn còn đó và vẫn phải trả nghiệp, kiếp này hay kiếp sau. Do đó tôi có ý nghĩ là:  Phải chữa trị khi “bệnh” chưa bột phát, tức không phải đợi đến khi hư hỏng mới tu. Mà phải tu từ lúc chưa hư hỏng.

-Không đợi đứa con bất hiếu, giết cha giết mẹ, đuổi cha mẹ ra ngoài đường rồi mới khuyên nó tu.

-Không đợi nó tham nhũng hối lộ, bòn rút của công…vào tù rồi gia đình mới khóc lóc đến chùa xin quý thầy tụng kinh giải nghiệp. Mà phải dạy cho nó từ lúc ấu thơ là chớ tham nhũng, thối nát, bòn rút của công.

-Đừng đợi hai chị em ruột cùng lãnh án tử hình vì buôn bán, chuyển vận ma túy rồi mới đến chủa xin cứu giúp. Mà phải dạy nó tinh thần trọng pháp, tuyệt đối không được vi phạm luật pháp quốc gia.

Do đó muốn tránh thảm họa cho chính mình, cho gia đìnhxã hội, các bậc cha mẹ hãy gấp rút đưa con đến chùa tu học từ thuở đầu đời. Hãy gửi con đến các Khóa Tu Mùa Hè, xuất gia gieo duyên, các Hội Trại, các buổi thuyết pháp dành cho tuổi trẻ và cho các em gia nhập Gia Đình Phật Tử, các Câu Lạc Bộ Thanh Thiếu Niên Phật Tử. Nhà chùa, trường học, gia đìnhxã hội phải kết hợp, chung tay góp sức, phối hợp trong sứ mệnh cao cả này.

Các bậc phụ huynh đưa con đến chùa để học tập về đạo đức làm người giống như trích ngừa cho trẻ nhỏ, mua bảo hiểm cho mình.  Khi đó cha mẹ yên tâm. Xin nhớ, một hình ảnh xấu, một ý nghĩ bất thiện tác động đến con người trong chớp nhoáng. Còn tư tưởng thiện lành, đạo đức cần thiết cho con người, có khi tu cả đời vẫn chưa thành. Khi con cái mình thấm nhuần lời Phật dạy như Bát Chánh Đạo (Chánh KiếnChánh Tư DuyChánh NgữChánh NghiệpChánh MệnhChánh Tinh TấnChánh Niệm và Chánh Định)  và Lục Hòa (Thân hòa cộng trụ, Khẩu hòa vô tránh, Ý hòa đồng duyệt, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải và Lợi hòa đồng quân) thì tôi dám bảo đảm rằng khi vào đời, chúng nó sẽ trở thành các công dân xuất chúng, đứa con hiếu thảo, lợi lạc cho bản thân, gia đìnhxã hội. Nếu mọi gia đình đều làm thế thì nơi chúng ta đang ở chính là Cực Lạc. Xin quý vị hãy tin như thế. Không phải đợi đến khi chúng nó hư hỏng rồi mới tu. Mà phải tu từ lúc chưa hư hỏng. Khi chúng nó hư hỏng thì gia đình đã tan nát. Nếu lúc đó mới biết tu thì gia đình chỉ còn lại vài mảnh vụn. Nếu chúng nó biết tu từ lúc chưa hư hỏng thì gia đình nguyên vẹn, an vui và hạnh phúc. Do đó, một phụ huynh khôn ngoan là biết đưa con đến chùa tu học từ thuở đầu đời.

Thiện Quả Đào Văn Bình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 652)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 770)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 684)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 662)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 727)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 675)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 914)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 709)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 762)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 897)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1382)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 908)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 935)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 866)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 756)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 709)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 719)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 594)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1243)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1126)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1093)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1058)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1168)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1106)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1190)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1120)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 995)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1031)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1106)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1071)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1180)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1078)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1154)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1140)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1069)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1131)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1106)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1102)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1121)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1050)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1240)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1121)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1032)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 979)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1009)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1024)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1155)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 913)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant