Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về Với Vu Lan

16 Tháng Tám 201906:53(Xem: 4940)
Về Với Vu Lan
VỀ VỚI VU LAN

Minh Mẫn

Về Với Vu Lan


Vu Lan không xuất phát từ thời Phật giáo Nguyên thủyThiền sư Thông Lạc đã bài xich, theo người cho rằng do chư Tổ Trung quốc bày đặt, và cũng cho rằng Vu Lan báo hiếulừa đảo trong thời chế độ phong kiến…mà Phật giáo Phát triển lạc dẫn quần chúng vào con đường ngoại đạo, nghĩa là PG phát triển tức PG Đại thừatà giáo ngoại đạo.

“Thế gian pháp tức  Phật pháp”  “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác”, Nghĩa là có chứng đắc thì cũng từ thế gian này mà chứng đắc, lìa thế gian đi tìm sự giác ngộ như người đi tìm sừng thỏ, vì thế mới gọi thế gian pháp tức Phật pháp. Dưới tầm nhìn của bậc tu chứng thì thế gian vẫn là cỏi Tịnh độ; Do vô minh của chúng sanh mà thấy vạn sự sai biệt đưa đến trầm luân khổ nạn.

Thế gian đa bệnh thì phương dược cũng đa dạng; ngay cả thuốc Tây chữa trị  bệnh đau đầu không chỉ có một loại. Thế thì ngoài thuốc Tây còn có Đông dược, mỗi chủng tộc còn có những phương dược riêng. Ngay cả đồng bào thiểu số cũng được Tổ tiên lưu truyền những phương thuốc đặc trị. Tùy bệnh nhân mà thầy thuốc kê toa thuốc khác nhau. Tây y chữa dứt cơn đau cấp thời, Đông y tìm ngay căn nguyên bệnh tật mà trị. Lương y ngày xưa, nhìn sắc diện bệnh nhân, âm thanh, tuổi tác so với vận niên và thời khí để định bệnh và gia giảm toa thuốc theo “quân thần tá sứ”.

Bệnh thân đã là thế thì bệnh tâm không thể đơn giản chỉ dùng vài “phương dược” mà có kết quả. Theo luât học, Phật chế giới khi có người phạm giới, cũng thế, đương thời, đồ chúng đầy đủ túc duyên, trùng phùng thời Phật tại thế, chỉ cần thân cận một bậc chứng đắc, trường lực của ngài cũng đủ ảnh hưởng hoán chuyển tâm thức đương cơ. Vì thế, giáo đoàn trên một ngàn hai trăm năm mươi vị nhập định chứng thiền dễ dàng. Chư Tăng đương thời căn cơ nhạy bén, ngài chỉ dạy “tứ Thánh đế, bát Thánh đạo,Minh sát tuệ còn gọi là Vipassana…”

Phật pháp càng xa khi căn cơ chúng sanh càng nhiễm trược, nghiệp quả sâu dày, không những bệnh tật phát sanh đa dạng, thì nghiệp thức vì thế cũng ô tạp đa dạng; Chúng sanhthiện căn với Phật pháp thì ít, tuy cảm tình viên đến vơi Phật giáo thì nhiều, nhưng để tu tập thì không bao nhiêu, nhất là  Thiền định “chỉ - quán”. Chư Tổ tùy bệnh mà lập phương cho hợp với căn cơ đương đại, do vậy, phương dược điều trị nghiệp quả trầm luân phát sanh đa dạng. Nếu khôngpháp môn Tịnh độ để dìu dắt những căn cơ u trệ, họ biết bám vào đâu để tu tập? Thiền cũng thế, Tổ sư thiền, Đại thừa thiền, Phản văn văn tự tánh, Lăng nghiêm đại định tu chứng viên thông…vô số pháp môn, nhưng không ví thế ra ngoài giáo lý căn bản của nhà Phật, cơ bản là “vô thường, khổ, vô ngã” “nhân quả”…

Tát cả chỉ là phương tiện để dẫn dắt, nhưng cái lỗi là do người sử dụng “phương dược”, biến phương tiện thành cứu cánh, đưa quần chúng từ mê lầm này sang mê lầm khác – tránh võ dưa lại gặp võ dừa. Đã là thế gian pháp tức Phật pháp thì cho dù bất cứ pháp nào cùng đều là phương tiện. Một viên sỏi tán vào gốc tre cũng giúp cho hành giả hoát nhiên đại ngộ.  Tà nhân hành chánh pháp, chánh pháp thành tà pháp, chánh nhân hành tà pháp, tà phápchánh pháp. Thế thì mọi pháp đều là phương tiện, pháp không có tội, chỉ có người hướng dẫn đúng sai mà thôi.

                                                        ***

Đồng ý Vu Lan báo hiếu không xuất phát từ giáo lý nguyên thủy, nhưng từ ngày Vu Lan biến thành truyền thống báo tứ trọng ân, đã giúp bao nhiêu người biết “uống nước nhớ nguồn”, chưa có người con Phật thuần thành nào đối xử tệ bạc, bất hiếu với đấng sanh thành. Phật giáo du nhập vào đất nước ta, hòa quyện với Nho giáo, làm đậm nét lễ nghĩa hiếu kính, dưỡng dục thâm ân; không những đối với ân sanh thành dưỡng dục, người con Phật còn biết tri ân Tổ quốc, ân đồng bào chúng sanh, ân thầy bạn. Đó không là nét đẹp văn hóa của Phật giáo, cho dù là Phật giáo phát triễn? Nếu là một Phật giáo theo ngôn từ của cố HT T.Thông Lạc là loại Phật giáo tà đạo thì vẫn đóng góp cho xã hội một nét văn hóa hữu ích, xóa nhiều tệ nạn trong những tội phạm không có tín ngưỡng, không tin vào luật “nhân quả”.Đó là một trong những cách Phật giáo đóng góp và đồng hành cùng dân tộc!

                                                ***

Cố HT Thông Lạc trả lời phỏng vấn của đệ tử về chủ đề Vu Lan báo Hiếu:

…….Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không có linh hồn người chết, không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa,không có Thần linh và cũng không có ma quỷ..vì thế,câu chuyện Mục Liên Thanh Đề, ta thấy rõ là giáo pháp của ngoại đạo đang lồng trong giáo pháp của đạo Phật, mượn danh đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của mình mà không nghi ngờ, đó là cái khéo léo của Phật giáo phát triển…qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng 7 trở thành một phong tục trong nhân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân…Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả,không công bằng và công lý…(vân đạo trưởng lão T.Thông Lạc)……

Người nghe HT trả lời, có cảm tưởng lý luận  của học thuyết “vô thần” hơn là tôn giáo tâm linh. Một tôn giáo không có tâm linh thì tu sẽ đi về đâu???Tóm lại, cho dù Vu Lan báo hiếu không xuất phát từ kinh điển nguyên thủy, không do Phật dạy, không có nghĩa những gì không từ kim khẩu của đức Thế tôn đều là vô nghĩa? Đức Phật không nói đến  tiện nghi khoa học ngày nay, chả lẽ mọi tiện nghi đều không thật? Phật đã nói, những gì ngài biết như lá trong rừng, những gì ngài dạy như nắm lá trong tay, thế thì những giáo lý hậu sanh giúp căn cơ trì trệ để bám vào tìm đường giải thoát cũng như giúp nhân sanh có đời sống đạo đúc không thể xem là tà ma ngoại đạo.Biết đâu, Phật sanh vào thời đại ngày nay, những lời dạy của ngài cũng không thể lìa 4.0…

Nếu tu mà không đem lại lợi lạc cho xã hội quần sanh, có nghĩa lánh xa trần tục mà vẫn sống nhờ trần tục thì thế nào?

Truyền thống Vu Lan báo hiếu không còn là của Phật giáo phát triển, nó trở thành văn hóa truyền thống dân tộc, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ quá vãng, song thân tại đường, tưởng nhớ thể hiện qua âm nhạc, hành xử, lễ nghi, bố thí, phóng sanh, cúng dường…Trong suốt tháng bảy, nhiều người ăn chay trọn tháng,  chay kỳ cũng được gia tăng, bấy nhiêu cũng đủ tránh nghiệp sát, nhiều sinh vật cũng được thoát nạn; tình thương từ đó được tăng trưởng, tránh nhiều tệ nạn vì họ tin tháng bảy là tháng báo hiếu cho cha mẹ ông bà.

Người Phật tử chưa đủ duyên tiến tu trên đạo lộ giải thoát, những phương tiện như thế lá cách giáo dục không thể thiếu, vì vậy, cho dù ai kia chưa là Phật tử, hãy đến với Vu Lan như mùa Hiếu hạnh, đáp đền một phần thâm ân của cửu huyền thất tổ sâu dầy qua nhiều kiếp trầm luân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2337)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3131)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2207)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2294)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2446)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2388)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2433)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2109)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2473)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2950)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2568)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2609)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2892)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2470)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2510)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3935)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2708)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2940)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3209)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2223)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2428)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2716)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2910)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2772)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2547)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2546)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3108)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2524)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2211)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2314)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2408)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2511)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2599)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2631)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3179)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2473)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2074)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2525)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1984)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2733)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2825)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2844)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2629)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2424)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2715)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2276)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3186)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2466)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2414)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2322)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant