Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tình Thầy Trò

19 Tháng Tám 201911:53(Xem: 4140)
Tình Thầy Trò
Tình Thầy Trò

Thích Thông Huệ

Chuyện kể về một người đã thành đạt, một hôm cùng đứa con trai về làng thăm thầy cũ. Đến một căn nhà tranh đơn sơ, hai cha con gặp một ông lão mắt đã lòa, chống gậy dò từng bước quanh sân. Người cha vội tiến đến cầm tay ông lão, thưa rằng:

- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không?

Ông lão bỡ ngỡ:

- Xin lỗi ngài, ngài là ai?

Người cha ứa nước mắt, ôm chầm ông lão:

- Thưa thầy, con chính là X, đứa học trò ngỗ nghịch của thầy. Ngày xưa, thầy nhiều lần phạt con về tội trốn học rong chơi, quậy phá làng xóm. Nhờ thầy nghiêm khắc dạy dỗ, nay con đã thành danh. Con không dám quên ơn thầy, nên tìm dịp về đây thăm viếng thầy.

Nói xong, người cha quay lại bảo con trai:

- Nếu không có thầy, cha không thể nào được như ngày nay. Công ơn thầy như trời biển, không những cha phải nhớ suốt đời, mà con cũng phải khắc ghi mãi mãi.

Đối với người Phật tử, bên cạnh tình thầy trò bình thường, chúng ta còn cảm nhận sâu sắc ân nghĩa của thầy dạy đạo. Cha mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân xác, đào luyện tâm hồnnâng cao trình độ kiến thức cho ta; nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sinh diệt nay còn mai mất, chỉ là kiến thức vay mượn khi đúng khi sai. Còn người chỉ cho ta phương pháp tu hành thoát khổ và vĩnh thoát sinh tử, nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt, chính là vị thầy đạo học. Công ơn ấy gẫm ra còn nặng gấp bao lần những ân tình ân nghĩa nói trên.

Thông thường, chúng ta hay xem trọng ngày sinh, xem lễ sinh nhật là một trong những ngày lễ lớn của gia đình. Ít có ai nhớ kỹ ngày mình quy y Tam bảo, thời điểm đầu tiên sinh ra thân huệ mạng của mình. Lẽ ra, ngày chúng ta trở về nương tựa ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng phải là ngày quan trọng nhất của một người Phật tử, vì đó là ngày chúng ta thật sự sinh ra một cách có ý nghĩa. Và cũng vì thế, vị bổn sư truyền giới đại diện Tăng bảo khai sinh cho ta, phải được tôn kính, biết ơn trong suốt cuộc đời.

Có người thích quy y một vị tu sĩ đạo cao đức trọng, có danh tiếng, và lấy đó làm điều hãnh diện. Có người trước đã từng quy y, sau thấy thầy khác nổi tiếng hơn, lại tìm đến xin quy y lần nữa. Có người trong quá trình theo bổn sư tu học, thấy thầy mình có biểu hiện nào đó làm mình không hài lòng, quay ra chê bai phỉ báng. Đây là hành vi không nên có đối với người Phật tử. Chúng ta quy y Tam bảo vì không muốn làm kẻ cùng tử lang thang, nguyện từ nay trở về nương theo Phật, theo giáo pháp của Phật tu hành. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài được truyền trao qua trung gian những vị tu sĩ là những Trưởng tử Như Lai. Khi đối trước một vị thầy phát nguyện thọ tam quy ngũ giới, chúng ta không chỉ quy y với cá nhân vị ấy, mà là quy y với cả ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng. Cho nên, một mặt ta có quyền lựa chọn bổn sư là người tài đức có thể hướng dẫn ta tu hành theo Chánh pháp; nhưng mặt khác, ta không nên so sánh thầy mình với các thầy khác theo ý nghĩa hơn thua. Thật ra, duyên thầy trò không phải chỉ một vài đời mà được thiết lập. Phật dạy, người cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp, huống gì duyên sư đệ, phải sâu đậm thế nào để thầy trò hạnh ngộ ở kiếp này.

Vì sao chư Tăng Ni được tôn xưng là Tăng bảo, chỉ sau hai ngôi báu Phật và Pháp, trong khi các vị ấy cũng là những người bình thường với đầy đủ hai thuộc tính hướng thượng và hướng hạ của một con người? - Bởi vì các vị là những nhân vật cụ thể mà ta có thể tiếp xúc được, học hỏi được; và thông qua các vị, ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật, theo gương Đức Phật tu hành, một ngày nào đó nhận ra Phật tâm sẵn đủ. Các vị là những sứ giả trao truyền Chánh pháp của Đức Phật, nên là đại diện cho cả ba ngôi báu. Bằng thân giáo và khẩu giáo, các vị có thể tác động trực tiếp vào tâm thức chúng ta, dắt dẫn chúng ta đi theo con đường sáng Đức Phật đã đi và đã đến đích.

Hiểu theo sự tướng, Tăng-già (Sangha) là tập thể những vị tu sĩ xuất gia, sống trong tinh thần thanh tịnhhòa hợp. Hiểu theo lý, Tăng chúng gồm những vị đã thành tựu chánh tri kiến, tức có cái thấy biết như thật về tất cả pháp thế gianxuất thế. Nói khác đi, Tăng-già được hình thành từ nội dung tâm chứng của từng cá thể trong đời sống tập thể. Hiểu sâu thêm một mức, Tăng-già chính là biểu tượng tôn quý nhất trong chiều sâu thẳm vô ngôn của bản thân chúng ta, nghĩa là tự tánh thanh tịnh vốn đủ của muôn loài. Cho nên, chúng ta quý kính Tăng bảo không chỉ là tôn trọng một cá nhân nào đó trong tập thể Tăng-già, mà còn là nhớ lại và sống với bản tâm hằng hữu của chính mình. Đảnh lễ một vị tu sĩ với tất cả lòng thành, chúng ta đã đảnh lễ cả Tam bảođảnh lễ chính ngay bản tâm hằng hữu ấy. Ngược lại, buông lời chê bai phỉ báng chư vị Tăng Ni, chúng ta đã tự phỉ báng chính bản tâm mình, và vô tình đóng kín cánh cửa dẫn đến giác ngộ giải thoát.

Tăng sĩ được phân ra ba hạng: Thánh tăng, Hiền tăng và phàm phu tăng. Chúng ta không thể dùng nhục nhãn và sự hiểu biết giới hạn của mình mà nhận địnhphân biệt được hành trạng và nhân cách của các vị. Nhìn chung, trong thời mạt pháp này, các vị tu sĩ vẫn chỉ là những chúng sanh vẫn còn tập khí của phàm phu; chỉ khác ở chỗ các vị đang từng bước đẩy lùi phiền não ma chướng, từng bước đi trên lộ trình hướng đến lý tưởng Giác ngộ - Giải thoát mà các vị đã từng thệ nguyện lúc mới xuất gia. Chúng ta không nên đòi hỏi thầy mình phải hoàn hảo như Hiền như Thánh, vì liệu chúng ta có đủ phước duyên làm đệ tử của các bậc Hiền Thánh Tăng chăng? 

Chúng ta cũng không nên nhìn vào một số biểu hiện tập khí nơi thầy mà đánh giá phê bình, vì quá trình tu tập của thầy vẫn còn đang tiếp diễn; miễn thầy dạy ta đúng Chánh pháp, ta theo lời dạy ấy tu hành được nhiều kết quả tốt. Thầy trò cùng tu, cùng sống trong đạo tình đạo vị dưới hào quang của chư Phật, Bồ-tát, có phải hay hơn là cứ mãi soi mói lỗi lầm của người mà quên mất những khuyết điểm của chính mình. Có thể nói, trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác chỉ phản ảnh bản chất của chính ta. Nếu tâm ta thanh tịnh trong sáng, vạn pháp dưới mắt ta đều toát ra vẻ an bình, mọi người chung quanh ta đều tốt đẹp dễ thương. Nếu tâm ta nhiều phiền não cấu uế, ta sẽ thấy trên đời này không có gì đẹp cả, không một ai tốt cả - ngoài ta.

Thiền sư Ajahn Chah, cố viện chủ thiền viện Wat Pah Pong Thái Lan và một số thiền viện khác ở Âu Mỹ, có lối dạy môn sinh rất kỳ đặc. Nhất là đối với những đệ tử xuất cách, ngài thường chê bai thậm tệ trước mặt mọi người. Một lần, trước đông đảo Phật tử Tây phương và bản xứ, ngài phê bình Đại đức Thitappo - đệ tử thân cận của ngài - là “Người đần độn nhất”. Vài hôm sau, ngài hỏi Đại đức:

- Hôm trước tôi nói vậy, ông có giận tôi không?

Đại đức cung kính đáp:

- Làm sao con có thể giận ngài? Giận ngài thì có khác chi nổi giận với một ngọn núi? (*)

Đây là một bài học lớn dành cho người xuất gia trong quan hệ giữa thầy và trò. Nếu người cư sĩ chỉ mang ơn dạy bảo của thầy, thì những tu sĩ còn mang thêm trọng ân nuôi nấng. Công ơn giáo dưỡng của bổn sư - vừa dưỡng dục thân ngũ uẩn sinh diệt, vừa nuôi lớn thân huệ mạng cho ta, quả là nghĩa ân cao trọng khó đền. Chúng ta khi bái sư làm lễ thế phát là đã trao trọn đời mình cho bổn sư, một lòng hiếu kính quy thuận Người, nguyện luôn tinh tấn tu hành theo lời Người chỉ dạy; khi có kết quả lại nối nghiệp bổn sư mà tiếp tục truyền trao cho người kế tiếp, để mạng mạch Phật pháp mãi mãi trường tồn.

Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy nghiêm khắc quở phạt bao nhiêu, các đệ tử cũng vẫn một lòng thờ kính thầy, không dám khởi niệm oán trách. Nhờ vậy, các vị ngộ đạo nhanh chóng, và lúc ấy càng thấy công ơn thầy quả bao la như trời biển.

Ngày Vu lan được xem như một lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì nhắc nhở tinh thần báo hiếu báo ân, những tình nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Trong đó, có những ân nghĩa của những người thầy dạy ta từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, từ những kiến thức thế gian đến lộ trình tu tập xuất thế gian. Có thể nói, tuy mỗi người chúng ta chỉ có cha và mẹ, nhưng thực ra ta có đến 4 vị thầy: Một là những bậc sinh thành, hai là những người nuôi dưỡng ta khôn lớn, ba là những vị thầy dạy ta từ việc đời đến việc đạo, và bốn là tất cả những người đã từng tiếp xúc với ta, hơn một lần vô tình hay hữu ý đã dạy ta cách đối nhân xử thế. Làm người có đạo đức, chúng ta không thể quên ơn của bốn vị thầy ấy; và bằng mọi cách trong khả năng của mình, phải báo đền ân nghĩa của các Người, dù chỉ trong muôn một.

 Thích Thông Huệ

_______________

(*)  Trích “Họ đã nghĩ như thế”, Giác Nguyên dịch, 1997, tr.344

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1542)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1403)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1819)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1573)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1346)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1636)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2159)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1902)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1262)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1443)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1438)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1726)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1483)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1347)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1491)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1432)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1758)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1456)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1415)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1431)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1502)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1689)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1590)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1531)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1407)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1495)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1207)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1387)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1540)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2905)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1544)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2033)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1576)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1776)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1975)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2170)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1640)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2610)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1705)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1886)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1612)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1791)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1850)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2091)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant