Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử

30 Tháng Tám 201915:47(Xem: 5221)
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử 

Thích Tâm An


khat thuc

Cách Mạng chính là sự xóa bỏ đi cái cũ đã lạc hậu cũ kỹ và thay thế bởi một cái mới hơn, phát triển hơn và để cho hợp với thời đại hơn. Lịch sử đã đi qua với bao thăng trầm theo đó cũng là bao nhiêu những cuộc cách mạng không chỉ về hình thái chính trị-xã hội mà nó còn có mặt và diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế-văn hóa của đời sống của loài người. Những cuộc cách mạng luôn được nuôi dưỡng, bộc phát rồi chúng diễn ra và đi đến kết quả trong mọi thời đại, mọi tầng lớp bởi hai hiện thực của sự khách quan và chủ quan mà làm nên được điều đó. Khách quan chính là mọi vấn đề trong thời điểm đó đang diễn ra gay gắt đòi hỏi cần có một sự phát triển để thay thế cái cũ đã lỗi thời hay không còn phù hợp. Chủ quan kia, đó chính là sự phát triển về nhận thức của con người ở trong thời điểm này để đi đến việc thực hiện một cuộc cách mạng mà chưa cần bàn tới “cách mạng về cái gì, hay điều gì đó”.

Có rất nhiều những cuộc cách mạng của chính trị, công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa… đã diễn ra trong dòng lịch sử. Phật giáo với những người xuất sĩ trong đây cũng không đặt bản thân mình ra khỏi cuộc cách mạng ấy. Nhưng có những điểm nổi bật và riêng biệt rằng, cuộc cách mạng của những người xuất sĩ ấy đều giống nhau trong mục đích, giống nhau trong tiến trình cách mạng, đều diễn ra không bao giờ có được hồi kết chung cho toàn bộ người xuất sĩ mà chỉ có được sự thành công đối với những cá nhân người xuất sĩ nhỏ lẻ. Mỗi ai khi bắt đầu đưa thân mình vào hình tướng khác xa thế tục bước đi trên con đường xuất sĩ là đều sẽ bắt đầu cuộc cách mạng cho chính mình. Một cuộc cách mạng của mọi tầng lớp xuất sĩ, mọi đứa con thơ của Bụt đều phải làm điều ấy.

Cuộc cách mạng này của người xuất sĩ đầy gian chuân, giống như người đi ngược chiều trong cơn bão tố, giống như người lái đò chèo ngược dòng chảy đang đầy dữ dội kia để tới đích cần phải đến. Mỗi người tham gia trong cuộc cách mạng này rất cần có trong mình một ý chí, một lập trường tư tưởng và một sự tinh tấn thật mãnh liệt không ngừng nghĩ mới có thể đi đặng. Trong đây, người xuất sĩ tiến hành cách mạng trên hai lĩnh vực chính là cách mạng về thân và cách mạng về tâm nhưng có cùng chung một đích đến là xây dựng một cuộc sống đầy an lạchạnh phúc. Cuộc cách mạng này với sự thật khách quan về kiếp nhân sinh đầy khổ đau luôn tiếp biến hoạt diệt trong dòng sinh tửthúc đẩy, liền đặt ra sự cấp thiết là mong muốn khỏi cái khổ đau ấy mà thay thế bằng niềm vui và hạnh phúc. Với sự thật chủ quan dẫn đến cuộc cách mạng ấy thì đó là tự nơi mỗi người xuất sĩ, họ đặt ra cho mình vấn đề cấp thiếtđi vào nhận thức rằng: muốn ra khỏi con đường của khổ đau sinh tử luân hồi, cần thiết hơn cả là đưa mình vào trong đường xuất thế để có thể một cách tốt nhất làm công cuộc cách mạng kia đối với chính mình và làm được cho người để cùng nhau đi đến một trạng thái đầy ai vui, hạnh phúcgiải thoát.

Mỗi cuộc cách mạng đều có những phương hướng, những  đường lối rõ ràngrành mạch chắc chắn để có thể đi đến thắng lợi vẻ vang. Thì ở đây những người xuất sĩ đã luôn có sẵn phương hướng và đường lối ấy cho mình  bởi nó đã được Bụt vạch ra từ trên 2500 năm trước, chỉ cần người xuất sĩ đủ dũng cảm để tiến hành bước đi bắt đầu cho cuộc cách mạng này.

Với thân, đầu tiên đó chính là cách mạng thay đổi từ hình dáng của người thế tục với trang phục đầy phong phú, đầu tóc gọn gàng đẹp đẽ và hợp mốt, trên thân phải có cái mùi thơm đặc trưng đủ để khoe cá tính… Thì người xuất sĩ sẽ phải cạo bỏ đi mái tóc và bộ râu góp phần tô điểm vẻ đẹp của dáng người của mình. Trên thân thì từ bỏ những trang phục có phần quý phái hay lộng lẫy mà khoác lên màu áo nhuộm bạc màu để làm cho mình khác biệt một cách giải thoát trong cuộc thế đầy những khác biệt của sự ganh đua.  Người xuất sĩ chẳng cần một mùi hương của loài hoa, mùi thơm của mảnh gỗ nhỏ hay mùi nước hoa toát ra trên thân thể của mình để làm cho người say đắm mà cũng đã tự có một mùi hương đặc trưng thật độc quyền, đó chính là hương của đức hạnh, hương của giới luật. Mùi hương ấy phát ra khiến cho mọi người đều sinh khởi tâm không dám coi thường, xem nhẹ. Trên bước đầu của cuộc cách mạng này đối với những người đã phát tâm xuất sĩ đều sẽ làm được  những điều đó, từ đây có nền tảng tiến thân mình trên những bước tiếp theo của cuộc cách mạng ngàn đời, muôn thế hệ.

Tiếp trên con đường cách mạng của người xuất sĩ, họ phải tăng tiến thêm với cấp bậc khó hơn đối với đời sống của mình. Họ cần phải từ bỏ sự sát hại thân mạng của đồng loại hay của những chủng loài khác để nuôi sống bản thân mình. Họ cần phải từ bỏ lối sống lấy của người mà không có sự đồng ý của họ để trợ giúp cho cuộc sống của mình thêm đầy đủ. Họ phải đoạn tuyệt trong cuộc sống của mình từ những ý nghĩ của tình ái, sự hoan ca của dục tình với không chỉ tự mình thỏa mãn hay đối với người mà còn đối với cả những loài động vật. Họ chấm dứt sự nói năng thô tháo, những lời nói mang lại những nỗi khổ niềm đau cho mình, cho người và cho vật. Họ tránh xa những thực phẩm trôi nổi trong nền kinh tế gây ảnh hưởng cho sức khỏetinh thần của mình để có được một sức khỏetinh thần thuần khiết không cần dựa vào những thực phẩm không lành mạnh trong xã hội ấy. Bởi trong tất cả những điều này họ nhận thức được khổ đau của chính mình và đối với người khác mà họ không để cho mình đi chệch quá xa với phương châm này của cuộc cách mạng. Bởi họ mong muốn mình cũng như người khác đều ra khỏi những trạng thái của nỗi khổ niềm đau nên đã không làm những điều có hại cho cả mình và người mà rộng hơn là đến mọi loài. Sự ý thức được khổ đau của giết hại, sự khổ đau của trộm cắp, sự khổ đau của tình dục, sự khổ đau của những lời nói không thiện và sự khổ đau của những chất kích thích gây ra nên người xuất sĩ đã không làm những điều đó hay xui khiến người khác làm những điều đó. Ở đây họ đã phát triển tình thương yêu của mình thật rộng lớn đối với tất cả con người hay loài vật và họ vui vẻ cũng như không chấp trước vào những điều tốt đẹp mình đã làm. Đến đây thì người xuất sĩ đã bước thêm được một bước nữa trên con đường cách mạng của mình đầy thành công buổi đầu, với sự phòng hộ bởi tường rào cao ngất ngưởng và kiên cố. Hàng rào này được gọi là Giới Luật trong cuộc cách mạng này. Thế nhưng những người tham gia cuộc cách mạng này từ trước đến đây cũng đã hy sinh vài đồng chí xuất sĩ đáng yêu bởi họ thiếu sự kham nhẫn, thiếu sự tinh tấn và chưa có được một cái nhìn hiểu thấu bằng trí tuệ.

Để thúc đẩy cho cuộc cách mạng này thành công, bước tiếp theo người xuất sĩ tiến thân mình trên những bước tiếp thật dũng mãnh. Họ phải giành nhiều khoảng thời gian của cuộc đời ban tặng cho mình để làm lắng dịu thân tâm trong những thời khóa tu tập hành trì, những sinh hoạt nghiêm khắc đúng thời giờ để rèn luyện thân thểrèn luyện tâm thức. Chuẩn bị tư trang đi vào bước đường đầy gian khó hơn của cuộc cách mạng mà mình đã chọn. Đó chính là hành trang cho bước đường cách mạng về Tâm của chính người xuất sĩ. Với những hành tướng bên ngoài thông qua sáu cánh cửa tiếp xúc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ngay lập tức bọn giặc mang tên phiền não xâm nhậpphát khởi trong tâm của người xuất sĩ. Nó với nhiều loại binh tướng như loại có tên hình sắc, loại có tên âm thanh, loại có tên mùi hương, loại có tên vị nếm, loại có tên cảm xúc và loại có tên ý tưởng. Chúng với những vũ khí thật tối tân, mạnh mẽ như tham lam, sân giận, si mê, tà kiến, vọng tưởngái dục, não hại, ác ý, thù nghịch… chúng luôn tiêm nhiễm vào tâm thức chúng ta những nỗi khổ niềm đau rồi từ đó phát sinh ra bản thân bởi những ngôn từ và hành động đầy vị đắng. Vì thế mà người xuất sĩ phải dùng đến một loại vũ khí đa dụng có sức đả thương mãnh liệt khiến cho quân địch kia khiếp sợ mà dần tan tác tả tơi. Vũ khí ấy đó chính là Chánh Niệm, tức là sự định tĩnh –thiền định của thân và tâm thức. Chánh niệm, là vũ khí tốt nhất của người xuất sĩ với công dụng để đánh trả lại được đối với tất cả những loại giặc. Bằng công dụng của nó, chánh niệm đã phát huy khả năng chiến đấu của mình trên chiến trường của  thân, trên chiến trường của tâm, trên chiến trường có tên cảm thọ và với những đối tượng bên ngoài sinh ra giặc phiền  não ấy.

Chánh niệm trên chiến trường thân, bằng những đường dây kết nối chỉ dẫn tân tiến, người xuất sĩ thấy rõ được hình tướng của mình, rằng nó đang thể hiện ra bên ngoài một cách thô tháo khiến kẻ địch nhận thấy mình hay uyển chuyển nhẹ nhàng làm mất đi tầm ngắm của bọn địch phiền não kia với chính ta. Điều này chính là sự quan sát, nhìn nhận đầy đúng đắn hay còn gọi là Chánh Kiến. Bằng cái máy khuyếch đại âm thanh người xuất sĩ lắng nghe được nhịp đập của con tim mình và nghe được cả những bước dịch chuyển vào ra của hơi thở để từ đó người xuất sĩ cảm nhận rõ ràng được nó và hiểu sâu về nó, đó chính là sự nhớ nghĩ thật chuyên chú và nó được gọi là Chánh Niệm của chánh niệm. Nhận diện được hơi thở, hiểu sâu và chuyển hóa nó là người xuất sĩ ấy đã hiểu được phần nào chính bản thân của mình nhờ vào sự lắng nghe và cảm nhận. Khi ấy người xuất sĩ mới có thể kết hợp được một cách hài hòa uyển chuyển mọi bộ phận của mình và của vũ khí khi tham gia chiến đấu và thậm chí là từng thớ thịt, dây thần kinh trong việc chiến đấu. Những điều này được người xuất sĩ phối hợp nhịp nhàng giữa thân thể, lời nóiý nghĩ. Chúng được coi là sự tư duy nhận định đúng đắn, những lời nói đúng đắn và những hành động đầy lợi ích. Trên đường cách mạng của mình những người xuất sĩ gọi đó là Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp. Đồng thời với bộ phận nhìn xuyên thấu, người xuất sĩ thấy rõ được từng bộ phận trên thân thể của mình có bao nhiêu thứ, chúng hoạt động và luôn thay đổi ra sao, từ đây người xuất sĩ cũng có được cái nhìn toàn diện trân thân thể của kẻ địch để nắm bắt được đường đi nước bước mà tìm ra những điểm yếu của chúng, đó là sự nhìn nhận và phát triển thân thể một cách đúng đắn mà danh từ chuyên môn trong cuộc cách mạng này đã dùng với cái tên là Chánh Mạng. Người xuất sĩ oai nghiêm dương cao nòng súng chắc chắn để ngắm nhìn kẻ địch bằng sự vững chãi không lay chuyển , lên nòng và rồi sẵn sàng “bắn”. Sự chắc chắn ngắm nhìn để chờ thời cơ ấy là sự cố gắng-là Chánh Tinh Tấn được người xuất sĩ sử dụng và sự vững chãi ấy chính là thiền định tức là Chánh Định, sự định thân và tâm thật thảnh thơi mà ngóng chờ kẻ địch. Và rồi viên đạn bắn ra kia chính là trí tuệ, là sự hiểu biết chắc chắn không còn nghi ngờ gì về đường đi nước bước của kẻ địch để mà bắn trúng và đầu não của nó. Trí Tuệ ấy chính là Chánh Trí, điều kiện cần thiết để cuộc cách mạng của người xuất sĩ đi đến được thành công vang dội với những thắng lợi thật vẻ vang trong dũng mãnh.

Năm điều đầu tiên mà người xuất sĩ sử dụng được thành công tức là đã bảo vệ được hàng rào chính yếu có tên Giới Luật. Điều này đã làm tăng trưởng lòng Từ Bi, khoan dung, Hỷ Xả của chính người xuất sĩ với mình và với chính kẻ địch hung hãn. Đối với bước tiếp theo của cuộc chiến cách mạng, người xuất sĩ tiến hành vững chãi trên Tám bước quan trọng bằng Trí tuệ sáng suốt để kiên cường chiến đấu chống bọn giặc phiền não với lòng Dũng cảm đầy hào khí mạnh mẽ như muốn đánh tan giông ba bão táp của vũ trụ. Điều này tóm gọn lại được gọi là “Bi-Trí-Dũng” mà đức Bụt đã vạch ra thành kế sách chiến đấu toàn vẹn giống như chiếc lưới thả vào trong nước có thể bao trùm tất cả những thứ gì đang có trong dòng nước lúc ấy.

Đến lúc này thì người xuất sĩ mới chỉ thắng và giành được một vài những đồn, trạm của kẻ địch. Nhưng với trí tuệ của mình, người xuất sĩ đã không cho phép mình quá đắm chìm vào cảm giác vui sướng khi chiến thắng, hay đau khổ khi bị chút thương tích trên người hoặc có chút sợ hãi đối với kẻ địch phía sau. Người xuất sĩ làm chủ những cảm xúc của mình để không dừng lại ở đây, những chiến binh xuất sĩ tiếp tục đi và dùng một vài chiêu đã có sẵn trong kế sách ấy để chống lại sự phản kháng của bọn giặc tham lam, sân hận, giận giữ, não hại, vọng tưởng, tà kiến…còn sót lại. Người xuất sĩ trên đường chiến đấu thực hiện lý tưởng cách mạng đã mang đầy thương tích bởi thân thể này hợp bởi những thứ không vững chãi (vô thường của 5 uẩn) hễ động dao là thịt rách, bị đạn thì lòi gân lộ thịt… và rồi những sự uể oải mệt mỏi (hôn trầm-thùy miên), hay tâm dao động tán loạn (trạo cử) trước những khó khăn thử thách làm cho họ phát điên (sân) vì kẻ địch và về những thiếu thốn của mình, khiến cho họ hiếu chiến-háo thắng (tham) và thậm chí tranh giành lẫn nhau cả về chiến công lẫn những phương tiện hỗ trợ, rồi tự họ khiến mình nảy sinh những nghi ngờ (nghi) về con đường cách mạng mà mình đang đi, những phương pháp mà mình đang sử dụng. Thế nhưng với lòng tin (tín), ý chí, nghị lực, sự mong muốn an lạc (nguyện) khi đánh tan bọn giặc kia và nhớ lại mục đích (hạnh) của mình khi bước chân lên đường cách mạng. Người xuất sĩ làm cho trí tuệ của mình được sử dụng hết công năng và rồi họ tiếp tục tiến bước trên con đường cách mạng đầy gian khó. Và sự thật rằng, khi đi đến đây lại có thêm rất nhiều những chiến binh xuất sĩ bị đánh gục bởi những trở ngại ấy, làm cho họ chùn chân, rời gót khỏi đường cách mạng bởi vì họ đắm chìm vào sự yếu đuối của mình, họ đã làm cho chính mình không còn mấy đáng yêu nữa.

Những người xuất sĩ còn lại, họ tiếp tục bước trong cuộc cách mạng mà mình đã trọn bằng cả tấm chân tình trong trí tuệ chiến đấu và sự kiên cường định tâm thật bất khuất. Họ dần dần hoàn thiện toàn bộ kế sách, chiến lược mà đức Bụt đã vạch ra, ở đó họ cũng thêm thắt hay lược bớt đi một vài những chi tiết nho nhỏ để cho phù hợp với hoàn cảnh đang diễn ra của thời đại. Họ chăm chú nỗ lực hết mình, họ hướng thêm được nhiều người thay thế vào chỗ của những người xuất sĩ đã bỏ được. Và họ cùng nhau lên đường, cùng trao đổi, cùng truyền dạy cho nhau, cùng rút kinh nghiệm cho nhau và cùng nhau chiến đấu cho đến khi thế hệ trước giành được thắng lợi vẻ vang, thực hiện được cuộc cải cách nhỏ lẻ trên chính mình. Những người ấy đã đạt được kết quả của cuộc cách mạng trên đường sinh tử mà họ đã chọn làm. Họ được an lạc, hạnh phúc, thoát khỏi sự nô lệáp bức của bọ giặc gian sảo kia và rồi họ đi tiếp trong cuộc đời bằng con đường trao truyền tư tưởngphương pháp, đường lối của cuộc cách mạng ấy. Để cho những người đi sau nếu có trọn bước đi trên con đường cách mạng này đều có được phương hướng chiến đấu, cải cách thật phù hợp để rồi họ tiến hành cách mạng trong cuộc sinh tử thật thành công và rồi họ lại trở thành những người đi trước với bao chiến công lừng lẫy vang dội khắp đất trời.

Thích Tâm An
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1081)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1328)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 932)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 819)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 976)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 987)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 844)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 945)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 901)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 999)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1602)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1241)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 791)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1245)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1311)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1293)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant