Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Biến Xứ Và Mười Pháp Vô Học Theo Quan Điểm Hữu Bộ Trong Tập Dị Môn Luận

31 Tháng Tám 201915:59(Xem: 5932)
Mười Biến Xứ Và Mười Pháp Vô Học Theo Quan Điểm Hữu Bộ Trong Tập Dị Môn Luận
Mười Biến Xứ Và Mười Pháp Vô Học Theo Quan Điểm Hữu Bộ Trong Tập Dị Môn Luận

Thích Phước Nguyên dịch và chú

Mười Biến Xứ Và Mười Pháp Vô Học Theo Quan Điểm Hữu Bộ Trong Tập Dị Môn Luận

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-89-6649-2
PHẨM MƯỜI PHÁP[1]
(
Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận,

đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)

A. DUYÊN KHỞI

(60) Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử lại nói với đại chúng:

Cụ thọ nên biết! Đức Phật đối với mười pháp sau khi đã tự mình khéo thông đạt, hiện đẳng giác, liền tuyên thuyết khai thị cho các đệ tử[2]. Hôm nay chúng ta nên hòa hợp kết tập, để ngăn ngừa sau khi đức Phật diệt độ xảy ra sự tranh cãi, khiến cho pháp luật tùy thuận phạm hạnh được an trụ lâu dài mang lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình; lại vì thương xót thế gian, chúng chư thiênnhân loại, khiến cho họ có được nghĩa lợi an lạc thù thắng[3].

(61) Những gì là mười pháp?

Ở đây khái lược có hai loại mười pháp, đó là mười biến xứ và mười pháp vô học.

B. LUẬN GIẢI

1. Mười biến xứ

Mười biến xứ[4]: Những gì là mười?

1. Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Địa biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ nhất.

2. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Thủy biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ hai.

3. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Hỏa biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ ba.

4. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Phong biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ tư.

5. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Thanh biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ năm.

6. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Hoàng biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ sáu.

7. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Xích biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ bảy.

8. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Bạch biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ tám.

9. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Không biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ chín.

10. Lại nữa, Cụ thọ nên biết! Một vị tưởng được Thức biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ mười[5].

i. Địa biến xứ

Thế nào là gia hành của Địa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Địa biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với đa dạng phương sở của đại địa này, hoặc cao hoặc thấp, hoặc gai gốc, hoặc cây cỏ, hoặc đất muối, hoặc lùm bụi, hoặc hiểm trở, hoặc cấu bẩn, đều không tư duy các xứ như thế. Đối với đa dạng phương sở của đại địa này, bình đẳng hiển liễu, như là trong bàn tay, đầy đủ vườn rừng sạch đẹp, môi trường đáng yêu thích, nắm bắt bất cứ dấu hiệu nào, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng[6] quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu địa ấy.

Do vị ấy đối với địa này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu địa ấy, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là địa mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là địa, thì chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một địa tướng, tức đây là địa, chẳng phải là thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập địa định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là địa.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là địa tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập địa định, nhưng chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Địa biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Địa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Địa biến xứ định?

Y chỉ địa định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về địa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là địa.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về địa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là địa mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là địa.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là địa, thì chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một địa tướng: biến này là địa, chẳng phải là biến thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập địa biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là địa.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là địa, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập địa biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp[7].

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ nhất: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ nhất.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

ii. Thủy biến xứ

Thế nào là gia hành của Thủy biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Thủy biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại thủy chú, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại tuyền thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại trì thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại bi thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại hồ thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Căng-già thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Diêm-mẫu-na thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Thiết-lạp-bà thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu A-thị-la-phiệt-để thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Mạc-ê thủy, cho đến: hoặc nắm lấy dấu hiệu Đông đại hải thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Nam đại hải thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Tây đại hải thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu Bắc đại hải thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu bốn đại hải thủy, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại thủy luân[8].

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu thủy ấy.

Do vị ấy đối với thủy này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là thủy mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là thủy, thì chưa thể chứng nhập thủy biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một thủy tướng, tức đây là thủy, chẳng phải là địa các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập thủy định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là thủy.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là thủy tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập thủy định, nhưng chưa thể chứng nhập thủy biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Thủy biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Thủy biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Thủy biến xứ định?

Y chỉ thủy định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về thủy ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là thủy.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về thủy ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là thủy mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là thủy.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là thủy, thì chưa thể chứng nhập thủy biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một thủy tướng: biến này là thủy, chẳng phải là biến địa các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập thủy biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là thủy.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là thủy, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập thủy biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ hai: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ hai.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

iii. Hỏa biến xứ

Thế nào là gia hành của Hỏa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Hỏa biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, nắm lấy hình ảnh lửa của vầng nhật trong sáng; hoặc nắm lấy hình ảnh ánh lửa của diệu dược, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa của thần châu[9], hoặc nắm lấy hình ảnh lửa của cung điện tinh tú; hoặc nắm lấy hình ảnh lửa cháy rực lớn của hỏa tụ; hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy thôn ấp, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy thành trì, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy sông ngòi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy đồng hoang; hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy mười bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy hai mươi bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy ba mươi bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy bốn mươi bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy năm mươi bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy một trăm bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy một ngàn bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy một trăm ngàn bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy vô lượng trăm bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy vô lượng ngàn bó củi, hoặc nắm lấy hình ảnh lửa đốt cháy vô lượng trăm ngàn bó củi. Vị ấy nhìn thấy các hình ảnh lửa đốt cháy như thế, trước tiên dần dần rực cháy, lại cực kỳ rực cháy, chuyển biến rực cháy, sau đều tỏa sáng.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu hỏa ấy.

Do vị ấy đối với hỏa này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là hỏa mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là hỏa, thì chưa thể chứng nhập hỏa biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một hỏa tướng, tức đây là hỏa, chẳng phải là thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập hỏa định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là hỏa.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là hỏa tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập hỏa định, nhưng chưa thể chứng nhập hỏa biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Hỏa biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Hỏa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Hỏa biến xứ định?

Y chỉ hỏa định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về hỏa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là hỏa.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về hỏa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là hỏa mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là hỏa.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là hỏa, thì chưa thể chứng nhập hỏa biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một hỏa tướng: biến này là hỏa, chẳng phải là biến thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập hỏa biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là hỏa.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là hỏa, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập hỏa biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ ba: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ ba.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

iv. Phong biến xứ

Thế nào là gia hành của Phong biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Phong biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy dấu hiệu bất cứ gió đông nào, hoặc nắm lấy dấu hiệu bất cứ gió tây nào, hoặc nắm lấy dấu hiệu bất cứ gió nam nào, hoặc nắm lấy dấu hiệu bất cứ gió bắc nào, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió có bụi bặm, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió không bụi bặm, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió phệ-thấp-ma[10], hoặc nắm lấy dấu hiệu gió phệ-lam-bà, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió nhẹ, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió lớn, hoặc nắm lấy dấu hiệu gió vô lượng, hoặc nắm lấy dấu hiệu đại phong luân[11].

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Phong ấy.

Do vị ấy đối với Phong này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Phong mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Phong, thì chưa thể chứng nhập Phong biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Phong tướng, tức đây là Phong, chẳng phải là hỏa các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Phong định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Phong.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Phong tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Phong định, nhưng chưa thể chứng nhập Phong biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Phong biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Phong biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Phong biến xứ định?

Y chỉ Phong định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Phong ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Phong.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Phong ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Phong mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Phong.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Phong, thì chưa thể chứng nhập Phong biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Phong tướng: biến này là Phong, chẳng phải là biến hỏa các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Phong biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Phong.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Phong, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Phong biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ tư: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ tư.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

v. Thanh biến xứ[12]

Thế nào là gia hành của Thanh biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Thanh biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy thanh thọ, hoặc nắm lấy thanh diệp, hoặc nắm lấy thanh hoa, hoặc nắm lấy thanh quả, hoặc nắm lấy thanh y, hoặc nắm lấy đa dạng thanh nghiêm cụ, hoặc nắm lấy thanh vân, hoặc nắm lấy thanh thủy, hoặc nắm lấy đa dạng thanh tướng nào khác của vật thể.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Thanh ấy.

Do vị ấy đối với Thanh này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Thanh mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Thanh, thì chưa thể chứng nhập Thanh biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Thanh tướng, tức đây là Thanh, chẳng phải là hoàng các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Thanh định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Thanh.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Thanh tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Thanh định, nhưng chưa thể chứng nhập Thanh biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Thanh biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Thanh biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Thanh biến xứ định?

Y chỉ Thanh định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Thanh ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Thanh.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Thanh ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Thanh mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Thanh.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Thanh, thì chưa thể chứng nhập Thanh biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Thanh tướng: biến này là Thanh, chẳng phải là biến hoàng các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Thanh biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Thanh.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Thanh, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Thanh biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ năm: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ năm.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

vi. Hoàng biến xứ

Thế nào là gia hành của Hoàng biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Hoàng biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy Hoàng thọ, hoặc nắm lấy Hoàng diệp, hoặc nắm lấy Hoàng hoa, hoặc nắm lấy Hoàng quả, hoặc nắm lấy Hoàng y, hoặc nắm lấy đa dạng Hoàng nghiêm cụ, hoặc nắm lấy đa dạng Hoàng tướng nào khác của vật thể.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Hoàng ấy.

Do vị ấy đối với Hoàng này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Hoàng mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Hoàng, thì chưa thể chứng nhập Hoàng biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Hoàng tướng, tức đây là Hoàng, chẳng phải là thanh các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Hoàng định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Hoàng.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Hoàng tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Hoàng định, nhưng chưa thể chứng nhập Hoàng biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Hoàng biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Hoàng biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Hoàng biến xứ định?

Y chỉ Hoàng định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Hoàng ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Hoàng.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Hoàng ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Hoàng mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Hoàng.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Hoàng, thì chưa thể chứng nhập Hoàng biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Hoàng tướng: biến này là Hoàng, chẳng phải là biến thanh các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Hoàng biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Hoàng.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Hoàng, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Hoàng biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ sáu: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ sáu.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

vii. Xích biến xứ

Thế nào là gia hành của Xích biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Xích biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy xích thọ, hoặc nắm lấy xích diệp, hoặc nắm lấy xích hoa, hoặc nắm lấy xích quả, hoặc nắm lấy xích y, hoặc nắm lấy đa dạng xích nghiêm cụ, hoặc nắm lấy xích vân, hoặc nắm lấy xích thủy, hoặc nắm lấy đa dạng xích tướng nào khác của vật thể.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Xích ấy.

Do vị ấy đối với Xích này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Xích mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Xích, thì chưa thể chứng nhập Xích biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Xích tướng, tức đây là Xích, chẳng phải là hoàng các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Xích định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Xích.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Xích tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Xích định, nhưng chưa thể chứng nhập Xích biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Xích biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Xích biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Xích biến xứ định?

Y chỉ Xích định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Xích ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Xích.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Xích ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Xích mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Xích.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Xích, thì chưa thể chứng nhập Xích biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Xích tướng: biến này là Xích, chẳng phải là biến hoàng các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Xích biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Xích.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Xích, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Xích biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ bảy: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ bảy.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

viii. Bạch biến xứ

Thế nào là gia hành của Bạch biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Bạch biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy bạch thọ, hoặc nắm lấy bạch diệp, hoặc nắm lấy bạch hoa, hoặc nắm lấy bạch quả, hoặc nắm lấy bạch y, hoặc nắm lấy đa dạng bạch nghiêm cụ, hoặc nắm lấy bạch vân, hoặc nắm lấy bạch thủy, hoặc nắm lấy đa dạng bạch tướng nào khác của vật thể.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Bạch ấy.

Do vị ấy đối với Bạch này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Bạch mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Bạch, thì chưa thể chứng nhập Bạch biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Bạch tướng, tức đây là Bạch, chẳng phải là xích các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Bạch định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Bạch.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Bạch tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Bạch định, nhưng chưa thể chứng nhập Bạch biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Bạch biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Bạch biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Bạch biến xứ định?

Y chỉ Bạch định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Bạch ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Bạch.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Bạch ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Bạch mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Bạch.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Bạch, thì chưa thể chứng nhập Bạch biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Bạch tướng: biến này là Bạch, chẳng phải là biến xích các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Bạch biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Bạch.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Bạch, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Bạch biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ tám: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ tám.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

ix. Không biến xứ

Thế nào là gia hành của Không biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Không biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy khoảng không trên nhà, khoảng không trên đất, khoảng không trên cây, khoảng không trên vách đá, khoảng không trên núi non, khoảng không trên sông ngòi, khoảng không trên sơn cốc.

Đối với bất cứ dấu hiệu nào được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Không ấy.

Do vị ấy đối với Không này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Không mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Không, thì chưa thể chứng nhập Không biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Không tướng, tức đây là Không, chẳng phải là thức các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Không định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Không.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất địnhKhông tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Không định, nhưng chưa thể chứng nhập Không biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Không biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Không biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Không biến xứ định?

Y chỉ Không định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Không ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Không.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Không ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Không mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Không.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Không, thì chưa thể chứng nhập Không biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Không tướng: biến này là Không, chẳng phải là biến thức các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Không biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Không.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Không, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Không biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ chín: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ chín.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

x. Thức biến xứ

Thế nào là gia hành của Thức biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Thức biến xứ định?

Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với thế giới này, hoặc nắm lấy đặc điểm nhãn thức thanh tịnh, hoặc nắm lấy đặc điểm nhĩ thức thanh tịnh, hoặc nắm lấy đặc điểm tỷ thức thanh tịnh, hoặc nắm lấy đặc điểm thiệt thức thanh tịnh, hoặc nắm lấy đặc điểm thân thức thanh tịnh, hoặc nắm lấy đặc điểm ý thức thanh tịnh.

Đối với bất cứ đặc điểm nào của các thức này được nắm bắt như thế, vị ấy bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu Thức ấy.

Do vị ấy đối với Thức này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là Thức mà không phải là gì khác.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Thức, thì chưa thể chứng nhập Thức biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Thức tướng, tức đây là Thức, chẳng phải là Không các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập Thức định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là Thức.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là Thức tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập Thức định, nhưng chưa thể chứng nhập Thức biến xứ định.

Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Thức biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Thức biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Thức biến xứ định?

Y chỉ Thức định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về Thức ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Thức.

Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về Thức ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Thức mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là Thức.

Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là Thức, thì chưa thể chứng nhập Thức biến xứ định.

Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một Thức tướng: biến này là Thức, chẳng phải là biến Không các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập Thức biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.

Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là Thức.

Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là Thức, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập Thức biến xứ định.

Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.

“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..

“Không hai”: không gián tạp.

“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.

Đó gọi là thứ chín: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ chín.

Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.

2. Mười pháp vô học

Mười pháp vô học[13]: Những gì là mười? 1. Vô học chánh kiến; 2. Vô học chánh tư duy; 3. Vô học chánh ngữ; 4. Vô học chánh nghiệp; 5. Vô học chánh mạng; 6. Vô học chánh cần; 7. Vô học chánh niệm; 8. Vô học chánh định; 9. Vô học chánh giải thoát; 10. Vô học chánh trí[14].

i. Thế nào là vô học chánh kiến[15]?

Những gì là Tuệ vô học không được kể trong tận trí, vô sinh trí. Đó gọi là vô học chánh kiến.

ii. Thế nào là vô học chánh tư duy[16]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo[17]; những gì là tư duytương ưng với tác ý vô học, hoàn toàn tư duy, tiếp cận tư duy; tầm cầu, hoàn toàn tầm cầu, tiếp cận tầm cầu; suy cứu[18], hoàn toàn suy cứu, tiếp cận suy cứu, khiến cho tâm ở nơi pháp hoạt động với tính thô[19]. Đó gọi là vô học chánh tư duy[20].

iii. Thế nào là vô học chánh ngữ[21]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo; vì lực thẩm sát[22] tương ưng với tác ý vô học, ngoại trừ bốn ác hành thuộc ngữ hướng đến tà mạng; còn đối với các ngữ ác hành khác đắc được vô lậu viễn ly, viễn ly vượt trội, thân cận viễn ly, tịch tĩnh, luật nghi[23], vô tác[24], vô tạo[25], loại bỏ, phòng hộ, như thuyền bè, cầu đò, bờ đê, tường vách[26]; đối với điều được chế định không leo qua, không có trạng thái leo qua, không vượt qua, không có trạng thái vượt qua, vô biểu ngữ nghiệp[27]. Đó gọi là vô học chánh ngữ.

iv. Thế nào là vô học chánh nghiệp[28]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, vì lực thẩm sát tương ưng với tác ý vô học, ngoại trừ ba ác hành thuộc thân hướng đến tà mạng; đối với các ác hành khác thuộc thân đắc được vô lậu viễn ly, viễn ly vượt trội, thân cận viễn ly, tịch tĩnh, luật nghi, vô tác, vô tạo, loại bỏ, phòng hộ, như thuyền bè, cầu đò, bờ đê, tường vách; đối với điều được chế định không leo qua, không có trạng thái leo qua, không vượt qua, không có trạng thái vượt qua, vô biểu thân nghiệp[29]. Đó gọi là vô học chánh nghiệp.

v. Thế nào là vô học chánh mạng[30]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, vì lực thẩm sát tương ưng với tác ý vô học, cho nên đối với ác hành thuộc thân và ngữ hướng đến tà mạng, đắc được vô lậu viễn ly, viễn ly vượt trội, thân cận viễn ly, tịch tĩnh, luật nghi, vô tác, vô tạo, loại bỏ, phòng hộ, như thuyền bè, cầu đò, bờ đê, tường vách; đối với điều được chế định không leo qua, không có trạng thái leo qua, không vượt qua, không có trạng thái vượt qua, vô biểu thân nghiệp. Đó gọi là vô học chánh mạng.

vi. Thế nào là vô học chánh cần[31]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, những gì là nỗ lực tinh tấntương ưng với tác ý vô học, kiên cố dũng mãnh, hừng hực khó chế ngự, khích lệ ý chí không ngừng. Đó gọi là vô học chánh cần.

vii. Thế nào là vô học chánh niệm[32]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, những gì là niệm mà tương ưng với tác ý vô học, tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên, không mất, không rơi sót, không rò rỉ, tính thể của Pháp không mất, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm. Đó gọi là vô học chánh niệm.

viii. Thế nào là vô học chánh định[33]?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, những gì là tâm trụ mà tương ưng với tác ý vô học, bình đẳng trụ, thân cận trụ, an trụ, không tán, không loạn, nhiếp chỉ, đẳng trì, trạng thái tâm và cảnh hiệp nhất. Đó gọi là vô học chánh định.

ix. Thế nào là vô học chánh giải thoát?

Chư vị Thánh đệ tử, đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, những gì là tâm thắng giảitương ưng với tác ý vô học, đã thắng giải, sẽ thắng giải. Đó gọi là vô học chánh giải thoát.

x. Thế nào là vô học chánh trí?

Tận trívô sinh trí. Đó gọi là vô học chánh trí.



[1] Trường 8, kinh Chúng tập, tr. 52c6-10. Pāli: 10. Dasaka, D 33, PTS iii 266-271. Đại tập pháp môn 2, T01n0012, tr. 233b3-8.

[2] Skt. daśāyuṣmanto dharmā bhagavatā svayam abhijñāyābhisaṃbudhyākhyātāḥ

[3] Skt. tān vayaṃ saṃhitāḥ samagrāḥ pūrvavad yāvad devamanuṣyāṇām

[4] Chỗ khác dịch: Thập nhất thiết xứ 十 一 切 處 hay biến xứ. Pāli: dasa kasiṇāyatanāni.

[5] Skt. yaduta daśa kṛtsnāyatanāni | pṛthivīkṛtsnam eke saṃjānaṃti ity ūrdhvam adhas tiryag advayam apramāṇaṃ | āpkṛtsnaṃ tejaḥkṛtsnaṃ vāyukṛtsnaṃ nīlakṛtsnaṃ pītakṛtsnaṃ lohitakṛtsnam avadātakṛtsnam ākāśānaṃtyāyatanakṛtsnaṃ vijñānānaṃtyāyatanakṛtsnam eke saṃjānanti ity ūrdhvam adhas tiryag advayam apramāṇam; Pāli: Dasa kasiṇāyatanāni. Pathavīkasiṇameko sañjānāti, uddhaṃ adho tiriyaṃ advayaṃ appamāṇaṃ. Āpokasiṇameko sañjānāti … pe … tejokasiṇameko sañjānāti … vāyokasiṇameko sañjānāti … nīlakasiṇameko sañjānāti … pītakasiṇameko sañjānāti … lohitakasiṇameko sañjānāti … odātakasiṇameko sañjānāti … ākāsakasiṇameko sañjānāti … viññāṇakasiṇameko sañjānāti, uddhaṃ adho tiriyaṃ advayaṃ appamāṇaṃ. 

[6] 假想; Skt. upacāra-nāma (Tib. nye bar btags pa'i ming): nghĩa đen “từ tượng hình”, ý chỉ các khái niệm giả định, cái khái niệm mang tính ước lệ nhằm mô tả một sự vật.

[7] 間雜; Skt. vyavakīrṇa/vyavakīryamāṇa (Tib. 'dres pa): phức hợp, đa thù; thành lập do vy-ava-√kṝ: không pha tạp, không trộn lẫn.

[8] 水輪; Skt. jala-maṇḍala. Vũ trụ vật lý, theo A-tì-đạt-ma, được mô tả là ba tầng đài (maṇḍala): mặt đất bao gồm núi sông, các lục địa, được đặt trên đài bằng vàng, gọi là kim luân (kañcana-maṇḍala). Nằm phía dưới nâng đỡ kim luân là đài nước hay thủy luân (jala-maṇḍala). Nâng đỡ phía dưới thủy luânphong luân hay đài gió (vāyu-maṇḍala). Phong luân y chỉ hư khôngtồn tại.

[9] Pháp uẩn (phẩm 14. Tu định): “Ma-ni”.

[10] Pháp uẩn (phẩm 20. Đa giới), thay bằng: “gió xoáy, gió bão”.

[11] Pháp uẩn (ibid.), kể thêm: “gió y chỉ hư không mà vận hành”.

[12] Bản Hán: quyển 20.

[13] Skt. aśaikṣa-dharma, Tib. mi slob pa'i chos, Ht. 無學法 vô học pháp, các pháp một vị A-la-hán đã đạt đến. Du-già 30, tr. 346b12.

[14] Skt. daśāśaikṣā dharmāḥ | katame daśa | aśaikṣī samyagdṛṣṭiḥ samyaksaṃkalpaḥ samyagvāk samyakkarmāntaḥ samyagājīvaḥ samyagvyāyāmaḥ samyaksmṛtiḥ samyaksamādhiḥ samyagvimuktiḥ samyagjñānam; Chúng tập: “mười pháp vô học: vô học chính kiến, vô học chính tư duy, vô học chính ngữ, vô học chính nghiệp, vô học

chính mạng, vô học chính niệm, vô học chính tinh

tấn, vô học chính định, vô học chính trí, vô học chính

giải thoát”. Cf. Pāli: Dasa asekkhā dhammā—asekkhā sammādiṭṭhi, asekkho sammāsaṅkappo, asekkhā sammāvācā, asekkho sammākammanto, asekkho sammāājīvo, asekkho sammāvāyāmo, asekkhā sammāsati, asekkho sammāsamādhi, asekkhaṃ sammāñāṇaṃ, asekkhā sammāvimutti.

[15] 正見 chánh kiến, Skt. samyag-dṛṣti, Tib. yang dag pa'i lta ba, Pāli: sammā-diṭṭhi, S. 45.21 Micchatta, S.45.8 Vibhaṅga: katamā... sammādiṭṭhi? yaṃ...dukkhe ñānaṃ, “thế nào là chánh kiến? Nhận thức về khổ…”.

[16] Chánh tư duy, Skt. samyak-saṃkalpa; Pāli: sammā-saṃkappa; Tib. sems par byed pa; Pāli: katamo...sammāsaṅkappo? yo kho... nekkammasaṅkappo avyāpādadsaṅkappo avihiṃsāsaṅkappo, “thế nào là chánh tư duy? Tư duy về xuất ly, tư duy về không thù hận, tư duy về không bạo hại”.

[17] Vibhaṅga: “Yo takko vitakko…pe… sammāsaṅkappo maggaṅgaṃ maggapariyāpannaṃ”, “những gì là tư duy, tầm cầu, cho đến: chánh tư duy, đạo chi, đạo tư cụ”.

[18] Thôi mịch 推覓, Skt. mārgamāṇa: suy cầu, tìm kiếm.

[19] 心於法麤動而轉; đây là nói tính chất hoạt động của tầm; Tì-bà-sa 42, 219a2: hoạt động truy tầm đối tượng của tâm (tâm sở), gọi là tầm; quán sát đối tượng gọi là tứ. Hoạt động với tính chất thô, gọi là tầm; hoạt động với tính chất vi tế, gọi là tứ, đây là sự sai biệt của tầm và tứ”.

[20] Tạp tập 10, tr. 741a07: “Chánh tư duy, đó là chi (Thánh đạo) khuyên dạy người khác; theo như sở chứng mà an lập phát động ngữ ngôn”.

[21] 正語 chánh ngữ, Skt. samyag-vāc, Tib. yang dag pa'i ngag.

[22] 思擇力 tư trạch lực, Skt. pratisaṃkhyāna-bala, Tib. so sor rtog pa'i stobs, lực tư duy thẩm sát, tư duy giản trạch.

[23] Luật nghi 律儀, Skt. saṃvara, do động từ saṃ-vṛ (saṃvṛṇoti): trùm kín, bao phủ, từ đó hàm nghĩa phòng hộ, chế ngự.

[24] Vô tác (akriyā): sự không làm các hành vi bất thiện, lực tác động của giới do phát nguyện thọ. Vibhaṅga: akiriyā.

[25] Vô tạo (akṛta): hành vi đã làm nhưng không tích lũy để thành dị thục. Vibhaṅga: akaraṇaṃ.

[26] Vibhaṅga: setughāto.

[27] Phẩm loại 7, tr. 717c26: “Ngữ nghiệp là gì? Nghĩa là ngữ biểu cùng với vô biểu”.

[28] Skt. samyak-karma-anta, Pāli: sammā-kammanta, Tib. yaṅ paḥi las kyi mthaḥ; yang dag pa'i las kyi mtha'.

[29] Phẩm loại 7, tr. 717c26: “Thân nghiệp là gì? nghĩa là thân biểu cùng với vô biểu”.

[30] Skt. samyag-ājiva, Pāli: sammā-ājiva, Tib. yang dag pa'i 'tsho ba.

[31] Ht. 正勤, Skt. samyagvyāyāma (Tib. yang dag pa'i rtsol ba, Pāli: Sammāvāyāma): trực tiếp nỗ lực, phấn đấu hợp lý hay đúng đắn; do động từ căn √yam: giữ vững, nâng cao.

[32] Skt. samyak-smṛti, Tib. yang dag pa'i dran pa, Pāli: sammā-sati.

[33] Skt. samyak-samādhi; Pāli: sammā-samādhi; Tib. yang dag pa'i ting nge 'dzin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2709)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2292)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2350)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3685)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2560)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2707)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3070)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2142)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2256)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2561)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2794)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2626)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2387)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2392)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 2953)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2388)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2073)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2165)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2263)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2381)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2436)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2478)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 2975)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2319)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 1926)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2438)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1858)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2550)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2694)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2701)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2458)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2286)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2567)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2207)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 2982)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2402)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2322)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2192)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 2896)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3787)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2792)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2385)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2451)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2341)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2098)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2383)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2688)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3681)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant