Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

02 Tháng Chín 201916:15(Xem: 5541)
Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論
***

Thích Phước Nguyên dịch và chú

Duyên Pháp

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế
ISBN: 978-604-89-6649-2

(Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)

Sáu tùy niệm: 1. Tùy niệm Phật; 2. Tùy niệm Pháp; 3. Tùy niệm Tăng; 4. Tùy niệm giới; 5. Tùy niệm xả; 6. Tùy niệm thiên[1].

i. Thế nào là tùy niệm Phật[2]?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! ở đây, vị Thánh đệ tử, bằng đặc điểm như vậy tùy niệm chư Phật, nghĩa là vị Thế Tôn ấy là bậc Như Lai, A-la-hán, nói chi tiết cho đến: Phật Bạc-già-phạm”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm chư Phật, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản: tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên, không mất, không rơi sót, không rò rỉ, không mất trạng thái của Pháp, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm. Đó gọi là tùy niệm Phật.

ii. Thế nào là tùy niệm Pháp?

Như Thế Tôn nói:

“Ở đây, vị Thánh đệ tử bằng đặc điểm như vậy tùy niệm Chánh Pháp, nghĩa là Chánh Pháp của Phật, nói chi tiết cho đến: trí giả nội chứng”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Pháp, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Pháp.

iii. Thế nào là tùy niệm Tăng?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, vị Thánh đệ tử bằng đặc điểm như vậy tùy niệm Tăng, nghĩa là Tăng đệ tử Phật[3], thành tựu diệu hành, nói chi tiết cho đến: xứng đáng được phụng sự bởi thế gian, vì là ruộng phước vô thượng”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tăng, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tăng.

iv. Thế nào là tùy niệm giới?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm Tự Giới, nghĩa là ‘Tịnh giới của Ta: không khuyết mẻ, không rách thủng, nói chi tiết cho đến: được bậc trí xưng tán, thường không hủy báng’”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tự Giới, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tự Giới.

v. Thế nào là tùy niệm tự xả?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm Tự xả, nghĩa là ‘Ta khéo đắc tài lợi vô nhiễm, tuy sống giữa các chúng sinh bị cuốn chặt bởi cấu bẩn[4] của xan tham, nhưng mà có thể viễn ly hết thảy cấu bẩn của xan tham, tâm không nhiễm trước, có thể duỗi tay huệ thí tài vật sở hữu, buông xả tài vật, tâm không sở hữu, phân bố ban khắp, tâm không thiên vị’”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tự Xả, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tự Xả.

vi. Thế nào là tùy niệm thiên?

Như Thế Tôn nói:

Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm chư Thiên[5], nghĩa là có Tứ đại vương chúng thiên[6], Tam thập tam thiên[7], Dạ-ma thiên[8], Đổ-sử-đa thiên[9], Lạc biến hóa thiên[10], Tha hóa tự tại thiên[11]. Chư Thiên như thế, vì thành tựu vô đảo tín, giới, văn, xả, và tuệ, nên chết từ xứ này, rồi sinh đến trong chúng Thiên đó. Ta cũng thành vô đảo tín, giới, văn, xả và tuệ, do đâu không được sinh về chúng Thiên ấy?’”

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm thiên, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản: tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên, không mất, không rơi sót, không rò rỉ, không mất trạng thái của Pháp, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm. Đó gọi là tùy niệm thiên.



[1] Skt. ṣaḍ anusmṛtayaḥ | buddhānusmṛtir dharmānusmṛtiḥ saṃghānusmṛtiḥ śīlānusmṛtiḥ tyāgānusmṛtir devatānusmṛtiḥ; Chúng tập: sáu tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Pāli: Cha anussatiṭṭhānāni—buddhānussati, dhammānussati, saṃghānussati, sīlānussati, cāgānussati, devatānussati.

[2] Ht. tùy niệm chư Phật 隨念諸佛, Skt. buddhānusmṛti (Tib. sangs rgyas rjes su dran pa; Pāli: buddhānussati), do động từ anu-√smṛ (tùy niệm): nhớ lại, hồi tưởng lại. Định nghĩa tùy niệm, cf. visuddhimagga-1.7: punappunaṃ uppajjanato satiyeva anussati, pavattitabbaṭṭhānamhiyeva vā pavattattā saddhāpabbajitassa kulaputtassa anurūpā satītipi anussati: “Niệm (sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên một cách thường trực; hoặc niệm thích ứng (anurūpā) cho một nam tử của gia đình hiền thiện, xuất gia vì tín tâm, niệm hiện hữu trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm”.

[3] Skt. buddha-śrāvaka-saṃgha, Ht. Phật đệ tử chúng 佛弟子眾, chúng ở đây có nghĩa là Tăng (saṃgha). Visuddhimagga-1: Bhagavato ovādānusāsaniṃ sakkaccaṃ suṇantīti sāvakā. Sāvakānaṃ saṅgho sāvakasaṅgho, sīladiṭṭhisāmaññatāya saṅghātabhāvamāpanno sāvakasamūhoti attho, “Tăng đệ tử này nghe (sunanti) một cách kỹ lưỡng lời huấn dụ của đức Thế Tôn, cho nên gọi Thanh văn Tăng. Tăng đệ tử này là hội chúng những Thanh văn này, cùng chung học giớichánh kiến.

[4] Ht. 垢 cấu, Skt. mala; Tib. dri ma: sự nhơ nhuốm, vẩn đục. Xá-lợi-phất 11, tr. 604a27-b1: “Thế nào là cấu? Dục cấu, sân nhuế cấu, ngu si cấu, phiền não cấu, chướng cái hệ phược ác hành cấu, cùng với những pháp cấu khác; hoặc thiền, giải thoát, định, nhập định, mà cấu, không tịnh, không khởi, không thanh, không diệu, là nghiệp ô nhiễm, không quang minh, đó gọi là cấu”; Thuận chánh lý 1, tr. 329a28: “Chư lậu gọi là cấu”, ibid., q.2, tr. 340c7: “cấu nghĩa là tham v.v… tức là cấu tư lương, nên cũng gọi là cấu”; Tì-bà-sa 173, tr. 870a13: “Cấu cụ gọi là cấu”; Du-già 8, tr. 314c1-2: “Tự tính nhiễm ô, cho nên gọi là cấu”, Du-già 84, tr. 770a14-15; Tập luận 4, tr. 677c15-19, Tạp tập luận 7, tr. 725a14-18.

[5] 隨念諸天 tùy niệm chư thiên, Pāli: devānussati.

[6] Skt. cātur-mahā-rājakāyika; Tib. la chen bzhi'i ris, Ht. 四大王衆天 Tứ đại vương chúng thiên.

[7] 三十三天 Tam thập tam thiên, Skt. devās trayas-triṃśāḥ, Tib. sum cu rtza gsum pa'i lha rnams.

[8] 夜摩天 Dạ-ma thiên, Skt. yāma, Tib. 'thab bral.

[9] 睹史多天 Đỗ-sử-đa thiên, Skt. tuṣita, Tib. dga' ldan.

[10] 樂變化天 Lạc biến hóa thiên, Skt. nirmāṇa-rati, Tib. 'phrul dga'.

[11] 他化自在天 Tha hóa tự tại thiên, Skt. para-nirmita-vaśa-vartino devāḥ, Tib. gzhan 'phrul dbang byed kyi lha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1069)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1253)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 979)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1314)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 770)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 739)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 791)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 809)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 788)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 776)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 928)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 815)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 973)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 981)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 913)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 916)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 842)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 997)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 941)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 886)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 976)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 891)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 836)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 942)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 871)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1133)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 899)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 996)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1129)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1598)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1150)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1232)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1100)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 959)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 906)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 946)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 789)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1470)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1348)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1318)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1256)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1361)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1315)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1459)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1338)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1193)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1243)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1309)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1291)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant