Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

02 Tháng Chín 201916:15(Xem: 5553)
Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

Sáu Tùy Niệm Theo Hữu Bộ Trích Từ Bản Việt Dịch A-tì-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận

ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論
***

Thích Phước Nguyên dịch và chú

Duyên Pháp

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế
ISBN: 978-604-89-6649-2

(Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)

Sáu tùy niệm: 1. Tùy niệm Phật; 2. Tùy niệm Pháp; 3. Tùy niệm Tăng; 4. Tùy niệm giới; 5. Tùy niệm xả; 6. Tùy niệm thiên[1].

i. Thế nào là tùy niệm Phật[2]?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! ở đây, vị Thánh đệ tử, bằng đặc điểm như vậy tùy niệm chư Phật, nghĩa là vị Thế Tôn ấy là bậc Như Lai, A-la-hán, nói chi tiết cho đến: Phật Bạc-già-phạm”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm chư Phật, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản: tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên, không mất, không rơi sót, không rò rỉ, không mất trạng thái của Pháp, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm. Đó gọi là tùy niệm Phật.

ii. Thế nào là tùy niệm Pháp?

Như Thế Tôn nói:

“Ở đây, vị Thánh đệ tử bằng đặc điểm như vậy tùy niệm Chánh Pháp, nghĩa là Chánh Pháp của Phật, nói chi tiết cho đến: trí giả nội chứng”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Pháp, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Pháp.

iii. Thế nào là tùy niệm Tăng?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, vị Thánh đệ tử bằng đặc điểm như vậy tùy niệm Tăng, nghĩa là Tăng đệ tử Phật[3], thành tựu diệu hành, nói chi tiết cho đến: xứng đáng được phụng sự bởi thế gian, vì là ruộng phước vô thượng”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tăng, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tăng.

iv. Thế nào là tùy niệm giới?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm Tự Giới, nghĩa là ‘Tịnh giới của Ta: không khuyết mẻ, không rách thủng, nói chi tiết cho đến: được bậc trí xưng tán, thường không hủy báng’”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tự Giới, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tự Giới.

v. Thế nào là tùy niệm tự xả?

Như Thế Tôn nói:

“Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm Tự xả, nghĩa là ‘Ta khéo đắc tài lợi vô nhiễm, tuy sống giữa các chúng sinh bị cuốn chặt bởi cấu bẩn[4] của xan tham, nhưng mà có thể viễn ly hết thảy cấu bẩn của xan tham, tâm không nhiễm trước, có thể duỗi tay huệ thí tài vật sở hữu, buông xả tài vật, tâm không sở hữu, phân bố ban khắp, tâm không thiên vị’”.

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm Tự Xả, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản, thuyết minh chi tiết như trên. Đó gọi là tùy niệm Tự Xả.

vi. Thế nào là tùy niệm thiên?

Như Thế Tôn nói:

Bí-sô nên biết! Ở đây, hoặc có vị Thánh đệ tử nào, bằng hình thái như vậy tùy niệm chư Thiên[5], nghĩa là có Tứ đại vương chúng thiên[6], Tam thập tam thiên[7], Dạ-ma thiên[8], Đổ-sử-đa thiên[9], Lạc biến hóa thiên[10], Tha hóa tự tại thiên[11]. Chư Thiên như thế, vì thành tựu vô đảo tín, giới, văn, xả, và tuệ, nên chết từ xứ này, rồi sinh đến trong chúng Thiên đó. Ta cũng thành vô đảo tín, giới, văn, xả và tuệ, do đâu không được sinh về chúng Thiên ấy?’”

Hoặc có vị Thánh đệ tử nào bằng đặc điểm như thế tùy niệm thiên, những gì là niệm tương ưng với kinh nghiệm nhận thức, mà kiến là căn bản: tùy niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên, không mất, không rơi sót, không rò rỉ, không mất trạng thái của Pháp, trạng thái ghi nhớ sáng suốt của tâm. Đó gọi là tùy niệm thiên.



[1] Skt. ṣaḍ anusmṛtayaḥ | buddhānusmṛtir dharmānusmṛtiḥ saṃghānusmṛtiḥ śīlānusmṛtiḥ tyāgānusmṛtir devatānusmṛtiḥ; Chúng tập: sáu tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Pāli: Cha anussatiṭṭhānāni—buddhānussati, dhammānussati, saṃghānussati, sīlānussati, cāgānussati, devatānussati.

[2] Ht. tùy niệm chư Phật 隨念諸佛, Skt. buddhānusmṛti (Tib. sangs rgyas rjes su dran pa; Pāli: buddhānussati), do động từ anu-√smṛ (tùy niệm): nhớ lại, hồi tưởng lại. Định nghĩa tùy niệm, cf. visuddhimagga-1.7: punappunaṃ uppajjanato satiyeva anussati, pavattitabbaṭṭhānamhiyeva vā pavattattā saddhāpabbajitassa kulaputtassa anurūpā satītipi anussati: “Niệm (sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên một cách thường trực; hoặc niệm thích ứng (anurūpā) cho một nam tử của gia đình hiền thiện, xuất gia vì tín tâm, niệm hiện hữu trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm”.

[3] Skt. buddha-śrāvaka-saṃgha, Ht. Phật đệ tử chúng 佛弟子眾, chúng ở đây có nghĩa là Tăng (saṃgha). Visuddhimagga-1: Bhagavato ovādānusāsaniṃ sakkaccaṃ suṇantīti sāvakā. Sāvakānaṃ saṅgho sāvakasaṅgho, sīladiṭṭhisāmaññatāya saṅghātabhāvamāpanno sāvakasamūhoti attho, “Tăng đệ tử này nghe (sunanti) một cách kỹ lưỡng lời huấn dụ của đức Thế Tôn, cho nên gọi Thanh văn Tăng. Tăng đệ tử này là hội chúng những Thanh văn này, cùng chung học giớichánh kiến.

[4] Ht. 垢 cấu, Skt. mala; Tib. dri ma: sự nhơ nhuốm, vẩn đục. Xá-lợi-phất 11, tr. 604a27-b1: “Thế nào là cấu? Dục cấu, sân nhuế cấu, ngu si cấu, phiền não cấu, chướng cái hệ phược ác hành cấu, cùng với những pháp cấu khác; hoặc thiền, giải thoát, định, nhập định, mà cấu, không tịnh, không khởi, không thanh, không diệu, là nghiệp ô nhiễm, không quang minh, đó gọi là cấu”; Thuận chánh lý 1, tr. 329a28: “Chư lậu gọi là cấu”, ibid., q.2, tr. 340c7: “cấu nghĩa là tham v.v… tức là cấu tư lương, nên cũng gọi là cấu”; Tì-bà-sa 173, tr. 870a13: “Cấu cụ gọi là cấu”; Du-già 8, tr. 314c1-2: “Tự tính nhiễm ô, cho nên gọi là cấu”, Du-già 84, tr. 770a14-15; Tập luận 4, tr. 677c15-19, Tạp tập luận 7, tr. 725a14-18.

[5] 隨念諸天 tùy niệm chư thiên, Pāli: devānussati.

[6] Skt. cātur-mahā-rājakāyika; Tib. la chen bzhi'i ris, Ht. 四大王衆天 Tứ đại vương chúng thiên.

[7] 三十三天 Tam thập tam thiên, Skt. devās trayas-triṃśāḥ, Tib. sum cu rtza gsum pa'i lha rnams.

[8] 夜摩天 Dạ-ma thiên, Skt. yāma, Tib. 'thab bral.

[9] 睹史多天 Đỗ-sử-đa thiên, Skt. tuṣita, Tib. dga' ldan.

[10] 樂變化天 Lạc biến hóa thiên, Skt. nirmāṇa-rati, Tib. 'phrul dga'.

[11] 他化自在天 Tha hóa tự tại thiên, Skt. para-nirmita-vaśa-vartino devāḥ, Tib. gzhan 'phrul dbang byed kyi lha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2476)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2297)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2616)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2388)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2266)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2485)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2492)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2515)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3001)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2604)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2923)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2541)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3997)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2995)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3271)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2474)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2760)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2828)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2584)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2455)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2645)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2688)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2520)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2104)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2556)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2020)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2780)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2678)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2463)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3247)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant