Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sống Với Sanh Tử

03 Tháng Chín 201916:22(Xem: 4934)
Sống Với Sanh Tử
SỐNG VỚI SANH TỬ

Nguyễn Thế Đăng


Sống Với Sanh Tử

Sở dĩ có các cõi và có các chúng sanh trong các cõi đó là vì nghiệp. Nghiệp là hành động, tức là hành động thuộc thân, khẩu, tâm của chúng sanh. Nghiệp khởi từ một cái thấy sai lầm, “vọng thấy”, “vọng phân biệt”. Vốn không có tự tánh mà thấy lầm là có tự tánh; không chỗ có - vô sở hữu - mà thấy lầm ra có thật; bất khả đắc mà thấy lầm có được và có mất.

Như mây hiện hình sắc
Trong ấy không có thật
Làm cho người vô trí
Nơi ấy sanh mê lầm.
Nơi loài súc sanh kia
Thọ lấy các thứ thân
Như mây trong hư không
Hiện ra các sắc tượng.
Biết rõ nghiệp như huyễn
Chẳng sanh lòng mê lầm
Tướng ấy vốn tịch tịnh
súc sanh tam-muội.


Muốn thoát khỏi nghiệp xấu ác, phải quán thấy thật tướng của nghiệp:

Gây tạo thuần nghiệp ác
Và tạo các nghiệp tạp
Lưu chuyển cõi Diêm-la
Thọ lấy các sự khổ.
Thật không cõi Diêm-la
Cũng không người lưu chuyển
Tự tánh vốn vô sanh
Các khổ dường cảnh mộng
Nếu quán được như thế
Là Diêm-la tam-muội.


Có cõi xấu ác, nơi ấy thọ những sự khổ, cũng là do nghiệp chuyển về cõi ấy. Nhưng thật ra, nghiệp, người thọ nghiệp, cõi để thọ nghiệp… đều vô tự tánh, nên không thật có cõi Diêm-la, không thật có người lưu chuyển, vì tất cả “tự tánh vốn vô sanh, như huyễn, như mộng”. Thấy được như thế là tam-muội, là trụ trong tánh Không giải thoát. Còn không thấy được như thế, nghĩa là thấy mọi sự đều có thật, thì như người xưa nói, “Rõ thì nghiệp chướng xưa nay Không; không rõ thì nợ xưa đành trang trải”.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh (?-1115) nói, “Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không…” (Tác hữu sa trần hữu - Vi không nhất thiết không…).
Một người dù chỉ chứng ngộ được một phần tánh Không, cũng thấy rằng nguyên nhân (Tập đế) khiến chúng sanh lưu chuyển trong ba cõi sáu đường là do “lấy không thân làm thân, danh tự giả bịa đặt” (Ca-lâu-la tướng tam-muội), “Pháp vô tác làm tác, gọi là khẩn-nala”, “Trong ấy không có pháp, mà vọng khởi phân biệt, biết rõ phân biệt ấy, tự tánh vô sở hữu, vì tướng ấy tịch tịnh, là ma-hầu tam-muội”. Khổ đau trong ba cõi sáu đường như thế chỉ vì hư vọng thấy, hư vọng chấp trước, và hư vọng hành động theo cái thấy mê lầm của mình.

Người thấy chúng sanh khổ đau trong ba cõi không thật như vậy bèn tự nhiên sanh lòng đại bi. Đại bi là cái tự nhiên sanh một khi đã thấy một phần tánh Không. Đại bi là thấy tất cả chúng sanh vốn ở trong tánh Khônghư vọng thấy lầm là có thật và tạo tác nghiệp rồi lại cho đó là có thật mà sanh thêm khổ đau. Trong hư không, trong như huyễn, trong cảnh mộng mà chúng sanh lại khóc than và tiếp tục hành động sai lầm để tiếp tục khóc than, thấy như vậy bèn tự nhiên có lòng bi. Và người có lòng bi, nguyện ở với chúng sanh để thức tỉnh họ, được gọi là Bồ-tát.
Nhưng ở với chúng sanh để giúp đỡ họ là một vấn đề lớn. Sống với chúng sanh là phải sống với tất cả những phiền não của chúng sanh. Làm sao người sống theo những điều tốt đẹp, hướng thượng có thể sống với người bác bỏ những điều tốt đẹp, và người không khổ đau có thể sống với người khổ đau ghê gớm? Làm sao có thể sống với chiến tranh, chém giết, cái xấu ác tràn lan ở một cõi, và những tai nạn xảy ra hàng ngày?

Để có thể sống với chúng sanhnghiệp quả của chúng sanh, vẫn phải lấy trí huệ soi thấu tánh Không làm sinh mạng cho mình: thấy không có chúng sanh (“cũng không người lưu chuyển”), không chấp thật những nghiệp của chúng sanh (“biết rõ nghiệp như huyễn”), không thấy các khổ là có tự tánh (“các khổ dường cảnh mộng”). Tóm lại, để có thể sống trong sanh tử cùng với chúng sanh, phải thấy ba cõivô tự tánh, như huyễn như mộng, chúng sanhvô tự tánh, như huyễn như mộng, và nghiệp nhân nghiệp quả của chúng sanhvô tự tánh, như huyễn như mộng. Tánh Khôngphương tiện thiện xảo rốt ráo của người tu Bồ-tát đạo. Trí huệ tánh Không vô ngại suốt thông qua ảo tưởngtự tánh của nghiệp để sanh tử trở lại vô tự tánhsanh tử vô tự tánh mới có thể là môi trường an toàn cho lòng bi sống và hoạt động.

* * *
Nghiệp do ba phiền não căn bản tạo thành là tham, sân, si. Thiền định thiền quán cho thấu nguồn tột đáy, thì tham được thấy là:

Tham từ phân biệt sanh
Phân biệt cũng chẳng có
Vô sanh cũng vô tướng
Trụ xứ bất khả đắc.
Tánh tham như hư không
Cũng không có kiến lập
Phàm phu vọng phân biệt
Do đó sanh tham nhiễm.
Pháp tánh vốn vô nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Tìm cầu khắp mười phương
Tánh nó bất khả đắc…
Các pháp tự tánh lìa
Giống như là Niết-bàn
Chư Phật trong ba đời
Biết tánh tham là Không
Trụ trong cảnh giới ấy
Chưa lúc nào lìa bỏ
Tự tánh tham như vậy
Rốt ráo chứng Bồ-đề
Rõ thấu đều bình đẳng…
Vì biết tham không nhiễm
Tức là rốt ráo Không
Chẳng do diệt hoại tham
đạt được giải thoát.
Pháp tham trong Phật pháp
Bình đẳng tức Niết-bàn
Người trí phải nên biết
Rõ tham tịch tịnh rồi
Nhập vào chỗ tịch tịnh
Đó tên tham tam-muội
.

Thấy rõ tướng tham “không có tự tánh, bất khả đắc, thật không có sanh, chỉ có danh tự giả…” bèn thấy được tự tánh hay bản tánh của tham là “Không, tự tánh lìa như Niết-bàn, rốt ráo thường thanh tịnh, bình đẳng tức Niết-bàn, pháp tánh vốn vô nhiễm, thanh tịnh như hư không”. Trụ trong bản tánh ấy tức là giải thoát, là tham tam-muội.

Kinh dạy quán thấy sân để trụ trong sân tam-muội như sau:

Do nhân duyên hư vọng
Mà khởi lòng giận dữ
Không ngã chấp làm ngã
Và do tiếng thô ác
Khởi lòng sân quá mạnh
Giống như là ác độc
Âm thanhgiận dữ
Rốt ráo vô sở hữu.
Như xát gỗ ra lửa
Cần nhờ sức các duyên
 
Nếu duyên chẳng hòa hợp
Thì lửa chẳng thể sanh
Biết tánh thanh là Không
Sân bèn chẳng còn sanh
Sân chẳng ở nơi thanh
Cũng chẳng ở trong thân
Nhân duyên hòa hợp khởi
Rời duyên chẳng sanh được
Sân tự tánh không khởi
Rốt ráo vô sở hữu
Tánh sân vốn tịch tịnh
Chỉ có nơi giả danh Giận dữ tức
Thật tế Bởi nương Chân như khởi
Biết rõ như pháp giới
Đó gọi sân tam-mu
ội

Sân do nơi âm thanh, phiền não và thân hòa hợp mà có, nhưng sân chẳng ở nơi âm thanh, nơi phiền não, nơi thân. Sân do những nhân duyên hòa hợp mà có, rời nhân duyên hòa hợp thì sân vốn không có: “Sân tự tánh không khởi, rốt ráo vô sở hữu”. Tánh sân vốn tịch tịnh, ở trong Thật tế tịch tịnh vì không có ta và người ấy, lại hư vọng chấp vào một cái ngã giả danh mà thành ra sân.

Quan sát thấu đáo thì “giận dữ tức Thật tế”, bởi vì giận từ trong Chân như mà khởi, nên cũng là Chân như, rồi phút chốc tan trở lại vào Chân như.

Thế nào là si tướng tam-muội?

Vô minh [si] thể tánh Không
Vốn tự không sanh khởi
Trong ấy không chút pháp
Có thể gọi là si.
Phàm phu nơi vô si
Hư vọng sanh lòng si
Nơi vô trước sanh trước
Giống như gút hư không.
Hư không không tích tụ
Người ngu từ xa xưa
Vọng khởi gút ngu si
Mà không chút phần tăng
Như người gút hư không
Không hề tăng hay giảm
Nhóm ngu si nhiều kiếp
Không tăng giảm cũng vậy…
Si ấy vô sở hữu
Không gốc không chỗ trụ
Vì gốc chẳng phải có
Cũng không si để tận
Bởi vì si vô tận
Biên tế bất khả đắc
Thế nên các chúng sanh
Ta chẳng thể làm tận
Si giới, chúng sanh giới
Cả hai đều vô tướng
Chúng đều như huyễn hóa
Nên chẳng làm tận được.
Si tánh và Phật tánh
Bình đẳng không sai khác
Nếu phân biệt trong Phật
Người ấy ở ngu si
Si và Nhất thiết trí
Tánh đều bất khả đắc…
Si không có biên tế
Từ đâu mà sanh được
tự tánh vô sanh
Tướng cũng bất khả đắc
Biết si không có tướng
Quán Phật cũng như vậy.
Phải nên biết như vậy
Tất cả pháp không hai
Tánh si vốn tịch tịnh
Chỉ có danh tự giả
Lúc ta chứng Bồ-đề
Thấy rõ si bình đẳng
Quán sát được như vậy
Đó gọi si tam-muội.

Một người đi con đường Bồ-tát, ngoài việc giải thoát cho chính mình bằng cách quán thấy tánh Không của sanh tử, còn phải ở lại với chúng sanh trong sanh tử để giúp họ giải thoát. Bồ-đề tâm là nguyện đạt đến giác ngộ (trí huệ tánh Không) để cứu độ tất cả chúng sanh (Đại bi). Để chung sống với chúng sanh còn đầy dẫy tham sân si thì phải quán thấy thật tánh của tham sân si và chủ nhân của tham sân sitánh Không, như huyễn: “Si giới, chúng sanh giới; cả hai đều vô tướng; chúng đều như huyễn hóa; nên chẳng làm tận được”.

Tham sân si đối với chúng sanh thì có sanh, nhưng đối với Bồ-tát thì không có sanh, vô sanh, nên Bồ-tát có thể an ổn trong sanh tử.

Trí huệ giải thoát đi đôi với lòng bi là con đường Bồtát, cả hai hợp nhất với nhau không tách lìa. Trí huệ tánh Không đưa tham, sân, si của mình và của vô số chúng sanh về nền tảng của chúng là tánh Không, Niết-bàn, Phật tánh, Chân như. Chính trí huệ tánh Không có thể làm cho đại bi đại nguyện của Bồ-tát không bị chìm đắm trong sanh tửchúng sanh.

Hơn nữa, với trí huệđại bi hợp nhất, vị tu Bồ-tát đạo có thể tiến đến cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật) khi đưa toàn bộ chúng sanhsanh tử về lại cội nguồn Phật tánh, Chân như của chúng. Những đoạn kệ trên đều nói đến cái thấy biết của Phật khi Ngài giác ngộ: “Lúc Ta chứng Bồ-đề, rõ thấu đều bình đẳng”; “Lúc Ta chứng Bồ đề, thấy rõ si bình đẳng”, “chư Phật trong ba đời, biết tánh tham là Không, ở trong cảnh giới ấy, chưa lúc nào lìa bỏ”.

Cái thấy biết của Phật là tất cả vũ trụchúng sanh đều là Niết-bàn, Chân như. Phật tánh; tất cả đều ở “trong Phật”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo Số 324 ngày 1-7-2019 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2209)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1709)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2020)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1736)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1719)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1892)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1904)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1557)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2066)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1818)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2385)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1712)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1714)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1672)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2122)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1944)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2084)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1625)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2240)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1594)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1755)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1820)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1658)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2401)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2114)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2060)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1862)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2216)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1792)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1914)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2142)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1675)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1935)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1931)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2147)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1923)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1766)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1748)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1753)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1863)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2154)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1707)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1680)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2245)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1774)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2348)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1950)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant