Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Không Tạo Tác

05 Tháng Chín 201905:18(Xem: 4805)
Không Tạo Tác

Không Tạo Tác

Nguyễn Thế Đăng

 
Không Tạo Tác

Ở đoạn cuối kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi Phổ môn, Ma vương Ba-tuần bạch Đức Phật rằng nếu kinh này được lưu truyền ở đời thì “thế giới tôi phải trống rỗng” và: “Mong Như Lai thương xót chẳng hộ niệm kinh này cho tôi được an ổn hết lo khổ”.

Đức Thế Tôn bảo Ba-tuần rằng: “Chớ mang lòng lo khổ. Nơi pháp môn này ta chẳng gia hộ. Các chúng sanh cũng chẳng Niết-bàn”.

Kinh thuật lại: “Thiên ma Ba-tuần nghe lời này vui mừng liền ẩn mất”.

Tại sao Đức Phật chẳng hộ niệm, gia hộ kinh này? Vì kinh này chỉ dạy về tánh Khôngtánh Không thì chẳng thể hoại diệt nên Đức Phật khỏi cần phải hộ niệm, gia hộ.

Theo chữ dùng của Kim Cương thừa, tánh Khôngkim cương với bảy phẩm tính của kim cương: không thể bị tổn thương, không thể bị hư hoại, thật, không thể hư hỏng, kiên cố, không thể bị che chướng, không có cái gì có thể chiến thắng. Với bảy phẩm tính kim cương ấy, tánh Không không thể bị làm hao mòn, hư hoại nên không cần phải gia hộ.

Tánh Không, theo kinh này là “như hư không, thanh tịnh, vô nhiễm, bất khả đắc, như hư không không thể nắm lấy để giữ yên một chỗ, không bao giờ tăng giảm, không gốc rễ trụ xứ…”. Thế thì tánh Không không cần phải gia hộ, giữ gìn, chẳng thể thêm bớt, chẳng thể làm ra (“vô tác, vô sanh”). Hành giả chỉ có thể “quán, quan sát, biết rõ” để thấy được tánh Không và an trụ trong đó.

Trong tánh Khôngthật tánh, là nền tảng của tất cả các Pháp, vốn không có các cõi và chúng sanh của các cõi ấy, cho nên“các chúng sanh cũng chẳng Niết-bàn”. Tánh Không thanh tịnh đến độ chưa từng có sanh tửchúng sanh trong đó:
Pháp tánh vốn vô nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Tìm cầu khắp mười phương
Tánh nó bất khả đắc
.

(Tham tướng tam-muội)

Thấy được tánh Không và an trụ trong đó, hay an trụ trong tam-muội ấy, là tất cả con đường Phật giáo. Tánh Không ấy chẳng hề mất, chẳng hề dơ sạch, chẳng hề sanh diệt, chẳng hề tăng giảm. Cửa vào tánh Không là cửa vào giải thoát. Cả hệ Nam truyền và Bắc truyền đều nói ba cửa giải thoát (tam giải thoát môn) là Không, Vô tướng, Vô tác.

Tại sao “các chúng sanh cũng chẳng Niết-bàn”? Vì như các bài kệ ở trước dạy quán chúng sanh trong tất cả các cõi đều có bản tánhtánh Không. Các tướng sai khác nhau của chúng sanh chỉ là “danh tướng vô sở hữu, như huyễn như mộng”, còn thật tướng của chúng sanhtánh Không, “không tướng, không sai biệt”, “thanh tịnh như hư không”, “tướng ấy vốn tịch tịnh”…

Chúng sanh xưa nay vốn là tánh Khôngtánh Không cũng là Niết-bàn, tánh Không cũng là bản tánh của chư Phật:
Như người lánh hư không
Trọn không thể thoát khỏi
Các pháp tánh tự lìa
Giống như là Niết-bàn
Chư Phật trong ba đời
Biết tánh tham là Không
Ở trong cảnh giới ấy
Chưa từng lúc bỏ lìa.

(Tham tướng tam-muội)

Chúng sanhbản tánhtánh Không, Niết-bàn có bản tánhtánh Không, chư Phật có bản tánhtánh Không; cả ba đồng một bản tánhtánh Không. Ở trong nền tảng tánh Không “bình đẳng”, đồng nhất ấy, thì thấy “các chúng sanh cũng chẳng Niết-bàn”.

Kinh nói tiếp:

“Ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát tiến lên bạch Phật rằng: Như Lai hôm nay có mật ý gì mà bảo Ba-tuần rằng Phật chẳng gia hộ pháp môn này?

Đức Phật nói: NàyVăn-thù-sư-lợi! Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này thế nên Ta nói với Ba-tuần như vậy. Bởi vì tất cả pháp đều bình đẳng với thật tế, đều quy vào Chân như, đồng với pháp giới, rời các ngôn thuyết, vì là tướng bất nhị nên không có sự gia hộ.

Do lời thành thật không có hư vọng của Ta như vậy có thể làm cho kinh điển này rộng truyền tại Diêm-phù-đề.

Dạy bảo xong, Thế Tôn nói với ngài A-nan rằng: Này A-nan, kinh này tên là Phổ nhập Bất tư nghị Pháp môn. Nếu ai thọ trì được kinh này là thọ trì bốn vạn tám ngàn pháp môn, hai sự thọ trì ấy đồng nhau không khác…”.

“Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này”: pháp môn này là tánh Không, là Chân như, nên không cần có sự gia hộ. Không phải tu hành làm cho nó tăng thêm, không phải sự sám hối làm cho nó trắng sạch ra, không phải sự bố thí làm cho nó thêm rộng lượng, không phải tinh tấn thiền định làm cho nó thêm vững chắc… Bởi vì nó chưa từng có một hạt bụi của sanh tử, chưa từng bị nhiễm ô bởi những phân biệt của tâm, ý, ý thức; chưa từng có chúng sanh và các cõi khổ đau. Đây đích thực là Không, Vô tướng, Vô tác hay Vô nguyện.

 “Không gia hộ” bởi vì tánh Không, pháp tánh, thật tế, Chân Như, Niết bàn, Phật tánh (những từ trong kinh này) không do ai làm ra, không do cái gì làm thành, không cái gì có thể chạm đến. Trút tất cả nhiễm ô của chúng sanh vào cũng không thể làm cho nó dơ, đổ tất cả nghiệp của chúng sanh vào cũng không thể làm cho nó nặng. Nó vốn thanh tịnh và tự đủ cho chính nó. Nó là cái vốn sẵn, nó là cái hiện tiền.

Nói theo pháp môn cao nhất của Phật giáo Ấn Tạng, nó là Đại Toàn Thiện, Đại Viên Mãn (Mahasandhi, Dzogchen), nó là khuôn mặt của Phật bổn nguyên Samantabhadra (Phổ Thiện, Phổ Hiền).

Tất cả các pháp đều bình đẳng với Thật tế, đều là Chân như, đều là Pháp thân, đồng với Pháp giới: Tấm gương sáng trưng có mọi bóng phản chiếu nhưng chưa từng có một hạt bụi, chưa từng có một niệm phân biệt, và nếu đã có nhưng như huyễn như mộng thì cũng chưa từng làm nhiễm ô tấm gương.

Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều quy về Phổ nhập Bất tư nghị Pháp môn này, như tất cả mọi dòng sông đều chảy vào trong biển; tất cả trở thành Một Vị, một vị tánh Không, một vị Chân như, một vị Pháp thân, một vị Niết-bàn.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo Số 327 ngày 15-8-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 137)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 157)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 159)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 186)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 233)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 263)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 251)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 353)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 610)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 580)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 852)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 469)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 655)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 450)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 853)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 577)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 683)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 876)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 548)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 678)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1022)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant