Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân TínhPhật Tính

26 Tháng Chín 201906:23(Xem: 5123)
Nhân Tính Và Phật Tính

NHÂN TÍNHPHẬT TÍNH

Lê Hải Đăng


Nhân Tính Và Phật Tính


Khi phán xét người nào đó có bản tính xấu xa, đồi bại, dã man… chúng ta thường kết luận con người ấy đã mất hết nhân tính! Trên thực tế, các hành vi tốt xấu đều thuộc phạm trù nhân tính.

Khổng Tử nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, con người sinh ra vốn lương thiện. Nhưng, Tuân Tử lại cho rằng: “Nhân chi sơ tính ác”, con người sinh ra bản tính vốn là ác. Như vậy, cả thiện và ác đều thuộc phạm trù nhân tính.

Đối với quan niệm Phật giáo, con ngườihiện thân của năm uẩn (ngũ uẩn), gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sự vận hành của năm uẩn này tạo ra con người. Nói cách khác, nếu có đấng tạo hóa, Ngài đã dùng năm chất liệu trên để sáng tạo con người. Do cách sắp xếp, tổ chức của năm uẩn, nên mỗi người có đặc điểm khác nhau, từ những biểu hiện cụ thể, như hình dáng, các hoạt động thường nhật cho đến tính cách, tư tưởng… Và tất cả đều thuộc tính người hay nhân tính. Bởi vậy, nhân tính không chỉ có phẩm chất cao quý được lý tưởng hóa thành siêu việt mà còn có cả thói xấu, đồng thời thể hiện tính chất thường biến.

Theo thuyết tiến hóa, trong quá trình chọn lọc tự nhiên, con người vẫn kế thừa tập tính loài vật. Mặc dù tôn giáo, tín ngưỡng, pháp luật, đạo đức với hệ thống chuẩn mực nghiêm khắc hướng tới mục tiêu “trấn yểm” hành vi, song thói xấu, bản chất vô cương luôn tiềm ẩncon người. Từ cổ chí kim, từ lạc hậu tới văn minh, con người không ngừng ganh đua, tranh đấu bằng hình thức thi thố tài năng hay thanh toán lẫn nhau, gây hấn… Chiến tranh là hình thức sinh động tô đậm bản chất vô cương ở nhân tính. Trong địa hạt tôn giáo, tín ngưỡng, nơi thể hiện tình yêu bao la cũng thường xuyên xảy ra xung đột. Các cuộc Thập tự chinh diễn ra thời Trung cổ từng gây hậu quả nghiêm trọng cho nhiều quốc gia trên thế giới. Trong công cuộc truyền bá Phúc âm ở nước ta, người Pháp đã huy động đến cả đại bác. Hai dòng Hồi giáo Sunni và Shiite thì không ngừng trả thù nhau từ quá khứ tới hiện tại. Ân oán giang hồ của hai dòng Hồi giáo anh em này vẫn chưa đi đến hồi kết. Còn nhà nước Hồi giáo IS cực đoan tới mức không thể chung sống hòa bình với các tôn giáo khác.

Kinh “Đại thừa A-tỳ-đạt-ma” viết: “Từ vô thủy đến giờ, nhất thiết pháp đẳng y đều có các loại thú cho đến khi chứng được Niết-bàn”. Như vậy, bản tính loài cầm thú luôn ẩn tàng bên trong loài người. Vì nhân tính mang nội hàm phức hợp, bao hàm cả yếu tố tốt đẹpxấu xa, nên bản tính này có khả năng đi xuyên không gian (cơ thể), thời gian (các kiếp). Sự tồn tại đa dạng trong thế giới loài người tự thân chỉ ra bản chất thường biến của nhân tính. Ở mỗi người cụ thể luôn hội tụ cả phẩm chất ưu tú lẫn thói hư tật xấu qua quá trình “tiến hóa” hay “luân hồi chuyển kiếp”.

Trong quá trình sáng tạo ra thiên nhiên thứ hai (văn hóa), con người từng bước hủy hoại cả thiên nhiên thứ nhất (nguyên mẫu), môi trường chung của muôn loài. Con người ngày càng xa rời lý tưởng, mon men gần tới ảo tưởng. Xét về khả năng hiện thực, con người hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu vật chất, nhưng không thể thỏa mãn lòng tham. Nhân tính giống như kẻ hai mặt, tráo trở, dù hệ thống đạo đức, pháp luật… đã được cài đặt nhằm cản trở tác dụng phụ của nhân tính, hướng tới hành vi lương thiện thông qua hoạt động tự giác, vì tha nhân, thay vì đặt mình ở vị trí trung tâm, nhưng con người vẫn tìm cách thoát khỏi sự kiềm tỏa.

Hệ thống đạo đức cấy ghép từ bên trong, còn pháp luật nằm ở bên ngoài.

Những kẻ phạm luật từ bên trong, theo tôn giáo gọi là phá giới, phạm luật ở bên ngoài gọi là phạm luật. Tất cả minh họa cho thuộc tính phức hợp trong bản thể nhân tính. Nhân tính dù hiểu với mong muốn vươn lên trở thành phẩm chất ưu tú, tốt đẹp thì thực tế, nó vẫn chưa đủ hóa giải thuộc tính phức hợp bên trong con người. Các loài hiển nhiên không coi loài ngườiưu tú, siêu việt. Nhiều loài mãnh thú có sức mạnh như hổ, báo, sư tử, tê giác, cá voi… lần lượt trở thành nô dịch của loài người. Điều đó chứng tỏ nhân tính chẳng phải phẩm chất siêu việtloài người tự đặt trong sự tham chiếu với muôn loài. Nhân tính bao gồm cả tập tính loài người kế thừa từ loài vật trong quá trình tiến hóa, đồng thời phát triển ở giai đoạn làm người.

Nói cách khác, nhân tính và vật tính không tách rời nhau. Nhân tính có cả tính hiếu sát, đua tranh, nhu cầu nổi trội, muốn ăn thua, hơn người… Có bản năng tự phát duy trì yếu tố loài vật, như nhu cầu sinh tồn, có bản năng bị trấn yếm bởi văn hóa, bằng vỏ bọc của quy ước, tập quán, chuẩn mực văn hóa để khu biệt giữa loài người và loài vật, nhưng tất cả giống nhau ở sự lệ thuộc.

Khi bàn đến nhân tính, người ta dễ dàng loại trừ tập tính xấu xa, thậm chí trả về cho loài vật và giữ lại cho mình phẩm chất ưu việt. Thế nhưng, sự tồn tại của loài người đã chỉ ra bản chất không thuần khiết của nhân tính, thể hiện một cách nhất quán mang đặc điểm giống loài. Con người duy trì tập tính của loài khác qua “tiến hóa” hay “luân hồi chuyển kiếp”. Trong quá trình chuyển đổi ấy lấp ló thuộc tính không toàn hảo ở nhân tính. Nó chứa đựng những ráp nối hiểm nguy, biến hóa đa đoan, khôn lường, vì nhân tính bao gồm cả vật tính. Tập tính ấy chứa đựng trong tàng thức chờ cơ hội đánh thứcchứng minh bằng sự hiện hữu. Tuy nhiên, song song với nhân tính, con người còn có thêm một thuộc tính khác là Phật tính. Ý niệm Phật tính đã được đề xuất hơn 2.000 năm trước.

Theo đó, Phật tính nhằm chỉ “khả năng giác ngộ trở thành Phật ở chúng sinh”. Nếu như nhân tính không đồng nhất, khác nhau ở mỗi cá thể thì Phật tính đạt đến tinh thần bình đẳng giữa mọi chúng sinh. Đây là cơ hội để mọi cá thể dấn thân vào con đường tu tập và chứng Niết-bàn. Và cánh cửa Niết-bàn thực sự bình đẳng với mọi chúng sinh, chỉ khác nhau về thách thức.

Qua cuộc đối thoại sinh động giữa Ngũ tổ Hoằng NhẫnLục tổ Huệ Năng chép trong kinh Pháp bảo đàn có thể thấy rõ tính chất bình đẳng bên trong Phật tính. Khi Huệ Năng tới Huỳnh Mai yết kiến Ngũ tổ.

Tổ hỏi: “Ông là người phương nào, muốn cầu việc gì?”.

Huệ Năng nói: “Đệ tử là dân Tân Châu Lãnh Nam, từ xa đến lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc gì khác”.

Tổ nói: “Ông là người Lãnh Nam, cũng là người kém văn hoá, làm sao có thể làm Phật được?”.

Huệ Năng nói: “Người có Nam Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam Bắc, thân hèn hạ này với thân hoà thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai biệt!”.

Qua đó chứng tỏ, Phật tínhyếu tố làm nên sự đồng nhất giữa muôn loài. Thông qua Phật tính, con người đạt tới tinh thần bình đẳng, tự nhiên kết nối với nhau. Nhờ yếu tố này mà cánh cửa Niết-bàn luôn rộng mở, bao dung, rộng chứa tất thẩy chúng sinh.

Nhân tính biểu hiện dưới nhiều hình thức, ưu việt hay suy đồi, hướng thượng hay trụy lạc. Tất cả đều thuộc phạm trù nhân tính. Các bậc hiền triết thời cổ đại không hề đạt được sự đồng thuận về quan niệm nhân tính. Cho tới thời hiện đại, nhân tính vẫn là vấn đề tranh cãi. Trong các câu chuyện gây tranh luận đó, nhân tính nổi lên như một nội hàm phong phú, đa dạng, chứa đựng sự bất ổn. Bởi vậy, nhân tính tự bản thân chưa nói lên được sự vĩnh cửu trong trạng thái thường biến của mình.

Loài người luôn phải đối diện trước lo âu, nguy cơ giằng xé ngay từ bên trong. Sinh lão bệnh tử là những sợi dây quấn quanh sinh thể hữu hình. Vượt qua chặng đường đời bể dâu, con người không ngừng phấp phỏng lo toan trước nhiều nguy cơ, bất ổn. Cửa tử, cánh cửa vô hình, có thể đóng sập bất cứ lúc nào. Nó chính là cánh cửa với sự kiểm soát an ninh nghiêm ngặt nhất trên thế gian. Ở đây, con người không chỉ không được mang theo hành lý ký gửi hay xách tay, mà ngay cả thể xác cũng phải bỏ lại. Trong chuyến khởi hành quan trọng này, chỉ có Phật tính mới đến được miền an lạc vĩnh hằng.

Lê Hải Đăng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1336)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1140)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant