Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ba Nghi Và Bốn Ải

14 Tháng Chín 201912:49(Xem: 3901)
Ba Nghi Và Bốn Ải

Ba Nghi Và Bốn Ải
Thích Phước Thiệt

phat-di-da-tiep-dan

Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.

 

A- Ba điều nghi

 

1) Nghi là vì nghiệp quá khứ mình quá nặng, trong khi công phu tu hành còn nông cạn - do đó sợ mình không được vãng sanh. 

2) Nghi là vì mình chưa hoàn thành tâm nguyện hay bổn phận và Tham Sân Si còn nhiều - do đó sợ mình không được vãng sanh.   

3) Nghi là mặc dầu mình niệm Phật nhiều, có thể Phật A-di-đà không đến rước (vì không thấy điềm lành) - do đó sợ mình không được vãng sanh.

 

B) Bốn cửa ải

 

Bốn cửa ải  là:

1) Do bịnh khổ hay tai nạn nên thối thất, sanh tâm trách Phật là không linh thiêng hay không quan tâm cứu giúp.

2) Do bịnh nặng sợ chết nên phá trai, phạm giới, ăn thịt, uống rượu, cúng bái tà thần, v.v...

3) Quyến luyến tài sản, của cải không nỡ xa lìa

4) Vấn vít tình cảm gia đình thân thuộc nên tự trói mình, không thể buông bỏ.

C) Giải quyết Ba điều nghi

 

     1) Nghiệp mình nặng, công phu còn kém cỏi:

 

Trong lời nguyện thứ 18, đức Phật A-di-đà thề sẽ không trụ ngôi Chánh giác nếu có chúng sanh  thành tâm cầu nguyện vãng sanhnhất tâm niệm danh hiệu Ngài (cho đến 10 niệm) mà không được vãng sanh. Phật không bao giờ vọng ngữ, nên chúng ta phải tin tưởng Ngài. Mười niệm rất ngắn ngủi mà cũng có thể vãng sanh, thì chúng ta thành tâm niệm Phật đã nhiều - lẽ nào lại không được vãng sanh? Nếu không được vãng sanh là do không đủ Tín và Nguyện, không phải do niệm Phật không đủ số lượng.

 

Hơn nữa dầu nghiệp nặng, nếu ta thành tâm sám hối, chí thành tin tưởng và niệm danh hiệu Phật thì Ngài sẽ đến hoan nghinh và hướng dẫn ta về cõi Cực Lạc - như đồ tể Trương Thiện Hòa suốt đời sát sanh, lúc gần chết thấy cảnh địa ngục rất hốt hoảng, may nhờ thiện tri thức khuyên sám hốihết lòng niệm Phật cầu cứu độ - nên được vãng sanh. Trong Quán Kinh cũng dạy là: Nếu người phạm tội Ngũ Nghịch hay Thập Ác, lúc gần chết ác tướng điạ ngục hiện tới, nếu chí thành sám hối và niệm danh hiệu Phật cầu xin cứu độ, Phật sẽ hiện thân rước về cõi Cực Lạc, sanh ra trong hoa sen Hạ phầm. Tại sao chúng ta nghiệp ác không quá nặng, lại nghi ngờ Phật không đến cứu mình?

 

      2) Tâm nguyện chưa tròn, Tham Sâm Si còn nặng
 

          a) Tâm nguyện tu hành

 

Nghĩ rằng mình tu hành đã lâucông phu còn nông cạn lại còn nhiều lỗi lầm, e rằng mình còn nợ đàn na tín thí quá nhiều, sợ không được vãng sanh. Nên nhớ kể cả người cực ác nếu thành khẩn niệm Phật lúc lâm chung cũng được vãng sanh, còn mình là người tu hành nếu có đủ tín nguyện thì lẽ nào Phật không cứu độ? Nếu được Phật A Di Đà bảo lãnh thì lo gì không trả được nợ đàn-na tín thí hay các món nợ khác?

 

Cũng có người muốn xây một ngôi chùa, muốn bố thí tài sản, muốn tụng bao nhiêu quyển kinh, v.v...Người tu nên nghĩ rằng chí thành niệm Phật sẽ được sanh về Cực Lạc, nơi mình có đầy đủ cơ duyên để tạo vô lượng phước đức. Do đó những nguyện ước làm công đức của mình so ra chỉ là thứ yếu, không đáng cho mình phải lo lắng, nhứt là vào lúc lâm chung.

 

         b) Tâm nguyện thế tục

 

Đây là những bổn phận gia đình như chăm sóc người bịnh, cha mẹ già, vợ con nheo nhóc, v.v...hay những món nợ chưa trả, những lời hứa chưa làm tròn, v.v...Người sắp chết nên nghĩ rằng những mối lo âu nầy, nay ta sắp chết, không thể nào giải quyết được, dầu ta có nghĩ đến chúng hay không. Một khi được vãng sanh về Cực Lạc và đạt thành Phật quả, mọi tâm nguyện hay nợ nần rồi sẽ được giải quyết - bởi vì ta có khả năng cứu giúp gia đìnhmọi người, bạn cũng như thù. Trong Di-lan-đà Vấn kinh có ngụ ngôn nầy: Một hạt cát rớt xuống mặt nước sẽ bị chìm ngay, trong khi một tảng đá nặng nếu có thuyền chở có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Người tu hành cũng giống vậy, dầu nghiệp nhẹ nhưng nếu không được Phật A-di-đà cứu giúp, cũng phải theo nghiệp mà luân hồi. Trái lại, với sự cứu độ của Phật A-di-đà, dầu nghiệp có nặng nề cũng không ngăn được người ấy vãng sanh Cực Lạc. Như thế, ta thấy pháp môn Tịnh độ nhờ thần lực của Phật, có thể cứu được người nghiệp nặng. Đức A-di-đà ví như thuyền chở, nghiệp nặng ví như tảng đá lớn. Do đó hành giả Tịnh độ chớ nghĩ là tàn dư Tham Sân Si có thể ngăn trở mình vãng sanh, trừ phi mình không có đủ Tín và Nguyện.

 

      3) Sanh nghi vì không thấy điềm lành

 

Ta có niệm Phật, lúc chết Phật A-di-đà có thể không đến rước (vì không thấy điềm lành). Lúc chết, hành giả Tịnh độ, tùy sức tín nguyệncông phu niệm Phật của mình, có thể thấy Phật A-di-đà, chư Bồ-tát và Hải Hội thánh chúng hiện thân đến tiếp dẫn, Cũng có khi người ấy không thấy gì cả, nhưng nhờ nguyện lực của mình và thần lực của Phật mà được vãng sanh. Khác nhau ở mức độ tin sâu nguyện thiết và công phu niệm Phật sâu hay cạn của mình. Điểm quan trọng nhất là lúc sắp chết ta chỉ nên nhứt tâm niệm Phật và không lo nghĩ bất cứ gì. Mọi nghi ngờ hay lo lắng lúc ấy sẽ là ngăn trở rất lớn cho sự vãng sanh. Tóm lại, trong lúc lâm chunghành giả không nên quan tâm về việc có thấy thoại chứng hay không. Người ấy phải buông xả tất cả, hết sức tập trung và thành khẩn niệm danh hiệu Phật xin Ngài cứu độ, cho đến hơi thở cuối cùng

 

D) Giải quyết Bốn cửa ải

 

     1) Do bịnh khổ hay tai nạn nên thối tâm, trách Phật không linh thiêng hay không quan tâm cứu giúp.

 

Hành giả nên biết rằng nghiệp quả thông cả ba đời, nên bịnh khổ hiện nay có thể do nhơn duyên xấu ác trong quá khứ mà nay mình phải trả. Cũng có khi do công phu tu hành nên mình được dồn nghiệp, để sớm trả cho hết trước khi vãng sanh. Phải tin tưởng luật nhơn quảvui lòng trả nghiệp, trước khi mình ra đi. Vả lại già bịnh và cái chết là điều tự nhiên, không ai tránh khỏi.

     2) Do bịnh nặng nên sợ chếtphá trai, phạm giới, cúng bái tà thần, v.v...

 

Điều nầy chứng tỏ hành giả chưa đủ đức tin và còn bám níu cõi đời. Phải nhớ cõi Ta-bà nhiều uế trược và đầy dẫy sự đau khổ - thân nầy là đãy da ô uế, nguồn gốc của bịnh tật và chết chóc. Nay nếu ta bỏ nó để sanh về Cực Lạc, thọ thân vàng và hưởng mọi sự vui - thì còn gì phải lưu luyến cõi đời nầy? Nên nhớ nếu không đủ đức tin và còn bám níu thì không bao giờ ta có thể vãng sanh. Do đó ngày thường, hành giả phải tập buông bỏ tất cả, thì lúc chết mới có hy vọng vãng sanh.

 

    3) Luyến tiếc của cải, tài sản

Những thứ nầy là phù du không đáng cho mình quan tâm. Nếu được vãng sanh thì không có vua chúa hay tỷ phú nào trên trái đất có thể đầy đủ và hạnh phúc được như mình. Hơn nữa những thứ ấy mình có đem theo được đâu, sanh tâm luyến tiếc nào có ích chi?

 

     4) Quyến luyến gia đình quyến thuộc, không nỡ xa lìa

 

Nên nhớ gia đình quyến thuộc là chỉ trong kiếp nầy. Khi chết rồi thì ai nấy theo nghiệp mà đi, có khi gặp nhau mà không biết, thậm chí trở thành kẻ thù của nhau. Chúng ta đã trải qua vô số kiếp, đã có vô số cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc, thân bằng, v.v... trong quá khứ - mà hiện nay ta còn nhớ ai đâu? Gia đình thân thuộc như bầy chim cùng đậu trên cây, khi giông bão đến thì rã bầy, mạnh ai nấy bay. Nếu hiểu thế, thì gia đình thân thuộc không còn trói buộc được mình.

 

Một vị đại sư nói: "Được vãng sanh hay không là do Tín và Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là do công phu niệm Phật của mình". Do đó muốn được vãng sanh, phải lo bồi dưỡng Tín Nguyện (Tin phải sâu, Nguyện phải thiết) trước - rồi quyết định niệm Phật trọn đời để cầu sự tiếp độ của Phật. Có người cho là phải niệm Phật đến nhứt tâm mới được vãng sanh. Điều nầy không đúng, bởi vì có người niệm ít hơn 10 niệm lúc lâm chung mà cũng được vãng sanh do họ có đủ tín nguyệnthành khẩn cầu xin cứu độ. Cho nên hành giả đừng nghĩ niệm Phật phải đạt tới mức nhứt tâm mới được vãng sanh mà sanh ra nghi ngờ khả năng của mình. Thật ra, niệm Phật nhứt tâm bất loạn chỉ là diều kiện để được vãng sanh Thượng phẩm mà thôi, chớ không áp dụng chung cho tất cả mọi người. Trong kinh A-di-đà chẳng phải đã nói chỉ cần nhứt tâm niệm được mười niệm lúc lâm chung là được vãng sanh hay sao?

Thích Phước Thiệt (trích mục "Ba nghi và Bốn ải" trong Từ điển Phật học Việt Anh – 12/9/2019)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1256)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1333)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1334)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1232)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1288)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1302)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1946)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1320)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1334)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1216)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1465)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1315)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1203)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1168)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1212)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1215)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1345)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1070)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1070)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1131)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1261)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1288)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1048)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1166)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1106)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1241)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1237)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1366)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1456)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1211)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1200)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1337)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1361)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1288)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1588)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1261)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1276)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1306)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1155)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1182)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1294)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1416)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1475)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1634)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1489)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1410)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1178)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1286)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1257)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1319)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant