Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

05 Tháng Mười 201905:08(Xem: 5315)
Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

THÁNH NGÔN VÀ PHI THÁNH NGÔN

TRÍCH TỪ BẢN VIỆT DỊCH A-TÌ-ĐẠT-MA TẬP DỊ MÔN TÚC LUẬN
ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論

blank
***
Thích Phước Nguyên dịch và chú

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-89-6649-2
(Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)


Bốn phi Thánh ngôn (I)

Bốn phi thánh ngôn: 1. Không thấy nói thấy; 2. Không nghe nói nghe; 3. Không cảm nhận nói cảm nhận; 4. Không nhận biết nói nhận biết[1].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: không thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không thấy nói thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nghe nói nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

 Bốn Thánh ngôn (I)

Bốn Thánh ngôn: 1. Không thấy nói không thấy; 2. Không nghe nói không nghe; 3. Không cảm nhận nói không cảm nhận; 4. Không nhận biết nói không nhận biết[2].

i. Thế nào là Thánh ngôn: không thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: không thấy nói không thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: không nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nghe nói không nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói không cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

Bốn phi Thánh ngôn (II)

Lại có bốn phi Thánh ngôn: 1. thấy nói không thấy; 2. nghe nói không nghe; 3. cảm nhận nói không cảm nhận; 4. nhận biết nói không nhận biết[3].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: thấy nói không thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nghe nói không nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận không”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Bốn Thánh ngôn (II)

Lại có bốn Thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. cảm nhận nói cảm nhận; 4. nhận biết nói nhận biết[4].

i. Thế nào là thánh ngôn: thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: thấy nói thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng đã thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: nghe nói nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng đã nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Sách đọc thêm: Bản dịch A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận (Phước Nguyên)
Dẫn nhập Tập dị môn luận



[1] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | adṛṣṭe dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | aśrute śrutavāditā | amate matavāditā | avijñāte vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bất thánh ngữ 不 聖 語: 1. không thấy nói thấy; 2. không nghe nói nghe; 3. không cảm thấy, nói cảm thấy; 4. không biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—adiṭṭhe diṭṭhavāditā, assute sutavāditā, amute mutavāditā, aviññāte viññātavāditā. Cf. T 12: bốn phi a-duệ-ra hành 非阿曳囉行.

[2] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | adṛṣṭe ’dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | aśrute ’śrutavāditā amate ’matavāditā | avijñāte ’vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bốn thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. hay nói hay; 4. biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—adiṭṭhe adiṭṭhavāditā, assute assutavāditā, amute amutavāditā, aviññāte aviññātavāditā.

[3] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | dṛṣṭe ’dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | śrute ’śrutavāditā | mate ’matavāditā | vijñāte ’vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—diṭṭhe adiṭṭhavāditā, sute assutavāditā, mute amutavāditā, viññāte aviññātavāditā.

[4] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | dṛṣṭe dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | śrute śrutavāditā | mate matavāditā | vijñāte vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—diṭṭhe diṭṭhavāditā, sute sutavāditā, mute mutavāditā, viññāte viññātavāditā.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1751)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1737)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1432)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1585)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 1940)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1685)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2247)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1586)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1592)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1540)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2001)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1815)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1959)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1508)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2112)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1472)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1733)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1631)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1686)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1523)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2272)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1989)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1939)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1752)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2097)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1687)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1806)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2019)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1544)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1799)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1784)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2025)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1786)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1641)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1626)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1632)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1737)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2029)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1598)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1578)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2133)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1839)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1623)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2204)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1821)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1919)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2125)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2412)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2455)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1983)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant