Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiệp & Dị Thục

10 Tháng Mười 201903:29(Xem: 4282)
Nghiệp & Dị Thục

NGHIỆP & DỊ THỤC
[Theo hệ thống lý Bốn loại nghiệp trong 
A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận]

Thích Phước Nguyên dịch và chú

Nghiệp & Dị Thục

Bốn nghiệp: 1. Nghiệp đen dị thục đen. 2. Nghiệp trắng dị thục trắng. 3. Nghiệp đen trắng - dị thục đen trắng. 4. Nghiệp không trắng không đen - không đưa đến dị thục, có thể tận diệt các nghiệp[1].

i. Thế nào là nghiệp đen dị thục đen?

Như Thế Tôn nói cho Bổ-lạt-noa, người hành trì câu chi ngưu giới:

“Viên mãn nên biết! Ở thế gian có một hạng Bổ-đặc-già-la tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại. Kẻ kia đã tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại. Kẻ kia đã tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể có tổn hại. Kẻ kia đã chiêu cảm được tự thể có tổn hại rồi, tức sinh trong thế gian có tổn hại. Kẻ kia do sinh trong thế giantổn hại rồi, nên xúc chạm với xúc có tổn hại. Kẻ kia đã xúc chạm với xúc có tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại, hoàn toàn không đáng yêu, hoàn toàn không đáng thích, hoàn toàn không đáng vui, hoàn toàn không vừa ý, như các loại hữu tình Na-lạc-ca. Kẻ ấy do loại này, nên có loại sinh này, sinh rồi lại xúc chạm loại xúc như thế. Do đó Ta nói: các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo. Viên mãn nên biết! Đó gọi là nghiệp đen dị thục đen”.

Tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại: Tức là tạo các thân, ngữ, ý hành bất thiện.

Ở trong nghĩa này, ý nói: các thân, ngữ, ý hành bất thiện gọi là các thân, ngữ, ý hành có tổn hại.

Kẻ kia đã tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại: tạo các thân, ngữ, ý hành bất thiện rồi, thì tạo tác, tăng trưởng các pháp bất viễn ly.

Ở trong nghĩa này, ý nói: tạo tác, tăng trưởng các pháp bất viễn ly, gọi là tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại.

Kẻ kia đã tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể có tổn hại: Tạo tác, tăng trưởng các pháp không viễn ly rồi, thì thủ đắc trung hữu của địa ngục.

Ở trong nghĩa này, ý nói trung hữu của địa ngục gọi là tự thể có tổn hại. Vì sao như vậy?

Vì khi đã trụ trong trung hữu đó, sắc được thấy bởi mấy, tiếng được nghe bởi tai, hương được ngửi bởi mũi, vị được nếm bởi lưỡi, xúc được cảm bởi thân, pháp được thông tri bởi ý, tất cả không vừa ý, không hợp ý, không thích ý, không xứng ý, không có hình thái vừa ý, không có hình thái hợp ý, không có đặc điểm quân bình, không phải là đặc điểm quân bình. Kẻ kia do duyên này, cảm thọ thuần túy ưu khổ.

Kẻ kia đã chiêu cảm được tự thể có tổn hại rồi, tức sinh trong thế giantổn hại: đã chiêu cảm được trung hữu của địa ngục rồi, tức sinh vào thú hướng địa ngục.

Ở trong nghĩa này, ý nói: thú hướng địa ngục, gọi là thế giantổn hại[2]. Vì sao?

Vì khi sinh vào thú hướng địa ngục rồi, thì sắc được thấy bởi mắt, cho đến: pháp được thông tri bởi ý, tất cả không vừa ý, không thích ý, nói chi tiết cho đến: không có đặc điểm quân bình, không phải là đặc điểm quân bình. Kẻ kia do duyên này, cảm thọ thuần túy ưu khổ.

Kẻ kia do sinh trong thế giantổn hại rồi, nên xúc chạm với xúc có tổn hại: khi sinh vào thú hướng địa ngục rồi, thì xúc chạm với xúc địa ngục.

Ở trong nghĩa này, ý nói: xúc ở địa ngục, gọi là xúc có tổn hại.

Kẻ kia đã xúc chạm với xúc có tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại: khi xúc chạm các loại xúc như thế thì nhất định cảm nghiệm loại thọ như thế, tức khi xúc chạm với xúc thuận dẫn cảm thọ khổ, tất cảm nghiệm khổ thọ. Do đây nên nói: xúc chạm với xúc có tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại.

Hoàn toàn không đáng yêu, hoàn toàn không đáng thích, hoàn toàn không đáng vui, hoàn toàn không vừa ý: những khổ thọ kia, tất cả hữu tình đều trọn không yêu mến, không ưa thích, không vui mừng, cũng không vừa ý. Do đây nên nói: hoàn toàn không đáng yêu, cho đến: không vừa ý.

Như các loại hữu tình Na-lạc-ca: chỉ rõ thú hướng địa ngục của các loại hữu tình nơi thế gian. Do đây nên nói: ncác loại hữu tình Na-lạc-ca.

Kẻ ấy do loại này, nên có loại sinh này: hữu tình kia có cứ sự sở y, có nhân, có duyên mà sinh ra ở nơi đó. Do đây nên nói: kẻ ấy do loại này, nên có loại sinh này.

Sinh rồi lại xúc chạm loại xúc như thế: sinh trong địa ngục rồi thì xúc chạm với xúc ở địa ngục. Do đây nên nói: sinh rồi lại xúc chạm loại xúc như thế.

Do đó Ta nói: các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo:

Giả sử tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại, hoặc không tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại, đồng thời tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại, hoặc đồng thời không tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại;

Hoặc tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại, hoặc không tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại, đồng thời chiêu cảm được tự thể có tổn hại, hoặc đồng thời không chiêu cảm được tự thể có tổn hại;

Hoặc chiêu cảm được tự thể có tổn hại, hoặc không chiêu cảm được tự thể có tổn hại, đồng thời sinh trong thế giantổn hại, hoặc đồng thời không sinh trong thế giantổn hại;

Hoặc sinh trong thế giantổn hại, hoặc không sinh trong thế giantổn hại, đồng thời xúc chạm với xúc có tổn hại, hoặc đồng thời không xúc chạm với xúc có tổn hại;

Hoặc xúc chạm với xúc có tổn hại, hoặc không xúc chạm với xúc có tổn hại, đồng thời cảm nghiệm các thọ có tổn hại, hoặc đồng thời không cảm nghiệm các thọ có tổn hại.

Tức không thể nói: Do đó Ta nói: các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

Nhưng do tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại, tức tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại;

Nếu không tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại, thì không tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại;

Nếu đã tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại, tức chiêu cảm được tự thể có tổn hại;

Nếu không tích tập tăng trưởng pháp có tổn hại, thì không chiêu cảm được tự thể có tổn hại;

Nếu đã chiêu cảm được tự thể có tổn hại, tức sinh trong thế giantổn hại;

Nếu không chiêu cảm được tự thể có tổn hại, thì không sinh trong thế giantổn hại;

Nếu đã sinh trong thế giantổn hại, tức xúc chạm với xúc có tổn hại;

Nếu không sinh trong thế giantổn hại, thì không xúc chạm với xúc có tổn hại.

Nếu đã xúc chạm với xúc có tổn hại, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại;

Nếu không xúc chạm với xúc có tổn hại, thì không cảm nghiệm các thọ có tổn hại.

Vì thế, nên nói: Do đó Ta nói: các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

Đó gọi là nghiệp đen dị thục đen: nghiệp này là bất thiện, chiêu cảm dị thục không đáng yêu.

ii. Thế nào là nghiệp trắng dị thục trắng?

Như Thế Tôn nói cho Bổ-lạt-noa, người hành trì câu chi ngưu giới:

“Viên mãn nên biết! Ở thế gian có một hạng Bổ-đặc-già-la tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại. Vị ấy đã tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại. Vị ấy đã tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể không tổn hại. Vị ấy đã chiêu cảm được tự thể không tổn hại rồi, tức sinh trong thế gian không tổn hại. Vị ấy do sinh trong thế gian không tổn hại rồi, nên xúc chạm với xúc không tổn hại. Vị ấy đã xúc chạm với xúc không tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ không tổn hại, hoàn toàn đáng yêu, hoàn toàn đáng thích, hoàn toàn đáng vui, hoàn toàn vừa ý, như các loại hữu tình thiên giới siêu việt đoàn thực. Hữu tình kia do loại này, nên có loại sinh này, sinh rồi lại xúc chạm với loại xúc như thế. Do đó Ta nói: các hữu tình đó tùy thuận nghiệp tự tạo. Viên mãn nên biết! Đó gọi là nghiệp trắng dị thục trắng”.

Tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại là gì?

Tạo các thân, ngữ, ý hành thiện.

Ở trong nghĩa này, ý nói: các thân, ngữ, ý hành thiện gọi là các thân, ngữ, ý hành không tổn hại.

Vị ấy đã tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại: tạo các thân, ngữ, ý hành thiện rồi, thì tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly.

Ở trong nghĩa này, ý nói: tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly gọi là tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại.

Vị ấy đã tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể không tổn hại: tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly tức chiêu cảm được trung hữu của Sắc giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: trung hữu của Sắc giới gọi là tự thể không tổn hại. Vì sao?

Vì khi đã an trụ trong trung hữu ấy thì sắc thấy bởi mắt, tiếng nghe bởi tai, hương ngửi bởi mũi, vị nếm bởi lưỡi, xúc được cảm nhận bởi thân, pháp thông tri bởi ý, tất cả đều vừa ý, không phải là không vừa ý, là hợp ý, không phải là không hợp ý, là đặc điểm vừa ý, không phải là đặc điểm không vừa ý, là hình thái bình đẳng, không phải là hình thái không bình đẳng. Vị ấy, do các duyên như thế nên cảm thọ thuần túy hỷ lạc.

Vị ấy đã chiêu cảm được tự thể không tổn hại rồi, tức sinh trong thế gian không tổn hại: đã chiêu cảm trung hữu của Sắc giới rồi, tức sinh lên thiên thú thuộc Sắc giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: thiên thú thuộc Sắc giới gọi là thế gian không tổn hại. Vì sao?

Vì trong thiên thú thuộc Sắc giới thì sắc được thấy bởi mắt, cho đến: pháp được thông tri bởi ý, tất cả đều vừa ý, không phải là không vừa ý, nói chi tiết cho đến: hình thái bình đẳng, không phải là hình thái không bình đẳng. Vị ấy do các duyên như thế nên cảm thọ thuần túy hỷ lạc.

Vị ấy do sinh trong thế gian không tổn hại rồi, nên xúc chạm với xúc không tổn hại: khi sinh trong thiên thú thuộc Sắc giới thì xúc chạm với xúc của thiên thú thuộc Sắc giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: xúc của thiên thú thuộc Sắc giới gọi là xúc không tổn hại.

Vị ấy đã xúc chạm với xúc không tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ không tổn hại: khi xúc chạm với loại xúc như thế thì nhất định cảm nghiệm các loại thọ như thế, tức khi xúc chạm với xúc thuận dẫn lạc thọ tất thọ nhận lạc thọ. Do đây nên nói xúc chạm với xúc không tổn hại rồi thì cảm nghiệm các thọ không tổn hại.

Hoàn toàn đáng yêu, hoàn toàn đáng thích, hoàn toàn đáng vui, hoàn toàn vừa ý: những lạc thọ kia, vô lượng hữu tình đều đáng yêu mến, đáng ưa thích, đáng vui mừng, đáng vừa ý. Do đây nên nói là hoàn toàn đáng yêu mến, cho đến: đáng vừa ý.

Như các loại hữu tình chư thiên siêu việt đoàn thực: chỉ rõ thú hướng thế gian thuộc sắc giới. Do đây nên nói như các loại hữu tình chư thiên siêu việt đoàn thực.

Vị ấy do loại này, nên có loại sinh này: hữu tình kia có cứ sự sở y, có nhân, có duyên, mà sinh ra ở nơi đó. Do đây nên nói: vị ấy do loại này, nên có loại sinh này.

Sinh rồi lại xúc chạm với các loại xúc như thế: đã sinh nơi Sắc giới rồi thì xúc chạm với xúc của Sắc giới. Do đây nên nói: sinh rồi lại xúc chạm với các loại xúc như thế.

Do đó Ta nói, các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo:

Giả sử tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại, hoặc không tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại, đồng thời tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại, hoặc đồng thời không tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại;

Hoặc tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại, hoặc không tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại, thì đồng thời chiêu cảm được tự thể không tổn hại, hoặc đồng thời không chiêu cảm được tự thể không tổn hại;

Hoặc chiêu cảm được tự thể không tổn hại, hoặc không chiêu cảm được tự thể không tổn hại, thì đồng thời sinh trong thế gian không tổn hại, hoặc đồng thời không sinh trong thế gian không tổn hại;

Hoặc đã sinh trong thế gian không tổn hại, hoặc không sinh trong thế gian không tổn hại, thì đồng thời xúc chạm với xúc không tổn hại, hoặc đồng thời không xúc chạm với xúc không tổn hại;

Hoặc xúc chạm với xúc không tổn hại, hoặc không xúc chạm với xúc không tổn hại, thì đồng thời cảm nghiệm các thọ không tổn hại, hoặc đồng thời không cảm nghiệm các thọ không tổn hại.

Tức không thể nói: Do đó, Ta nói các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

Nhưng do tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại, thì tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại;

Nếu không tạo các thân, ngữ, ý hành không tổn hại, thì không tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại;

Nếu tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại, thì chiêu cảm được tự thể không tổn hại;

Nếu không tích tập tăng trưởng các pháp không tổn hại, thì không chiêu cảm được tự thể không tổn hại;

Nếu chiêu cảm được tự thể không tổn hại, thì sinh trong thế gian không tổn hại;

Nếu không chiêu cảm được tự thể không tổn hại, thì không sinh trong thế gian không tổn hại;

Nếu sinh trong thế gian không tổn hại, thì xúc chạm với xúc không tổn hại;

Nếu không sinh trong thế gian không tổn hại, thì không xúc chạm với xúc không tổn hại;

Nếu xúc chạm với xúc không tổn hại, thì cảm nghiệm các thọ không tổn hại;

Nếu không xúc chạm với xúc không tổn hại, thì không cảm nghiệm các thọ không tổn hại;

Vì thế nên nói: Do đó, Ta nói các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

Đó gọi là nghiệp trắng dị thục trắng: nghiệp này là thiện, chiêu cảm dị thục đáng yêu.

iii. Thế nào là nghiệp đen trắng - dị thục đen trắng?

Như Thế Tôn nói cho Bổ-lạt-noa, người hành trì câu chi ngưu giới:

“Viên mãn nên biết! Ở thế gian có một hạng Bổ-đặc-già-la tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại. Vị ấy đã tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại. Vị ấy đã tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại. Vị ấy đã chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại rồi, tức sinh trong thế giantổn hại không tổn hại. Vị ấy do sinh trong thế giantổn hại không tổn hại rồi, nên xúc chạm với xúc có tổn hại không tổn hại. Vị ấy đã xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại, pha tạp, tương tạp, như các loại hữu tình thuộc nhân loại và một phần thiên giới. Hữu tình kia do loại này, nên có loại sinh này, sinh rồi lại xúc chạm với các loại xúc như thế. Do đó, Ta nói: các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo. Viên mãn nên biết! Đó gọi là nghiệp đen trắng - dị thục đen trắng”.

Tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại: tạo các thân, ngữ, ý hành thiện, bất thiện.

Ở trong nghĩa này, ý nói: các thân, ngữ, ý hành thiện, bất thiện gọi là các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại.

Vị ấy đã tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại rồi, thì tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại: đã tạo các thân, ngữ, ý hành thiệnbất thiện rồi, thì tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly và không viễn ly.

Ở trong nghĩa này, ý nói: tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly và không viễn ly gọi là tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại.

Vị ấy đã tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại rồi, thì chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại: tạo tác tăng trưởng các pháp viễn ly và không viễn ly, tức chiêu cảm được trung hữu của nhân loạichư thiên thuộc Dục giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: trung hữu của nhân loạichư thiên thuộc Dục giới gọi là tự thể có tổn hại không tổn hại. Vì sao?

Vì an trụ nơi trung hữu ấy thì sắc thấy bởi mắt, tiếng nghe bởi tai, hương ngửi bởi mũi, vị nếm bởi lưỡi, xúc được cảm nhận bởi thân, pháp thông tri bởi ý, tất cả là vừa ý cũng không vừa ý, là hợp ý cũng không hợp ý, có đặc điểm vừa ý cũng có đặc điểm không vừa ý, có hình thái bình đẳng, cũng có hình thái không bình đẳng. Vị ấy do các duyên như thế nên cảm thọ pha tạp khổ lạc.

Vị ấy đã chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại rồi, tức sinh trong thế giantổn hại không tổn hại: chiêu cảm được trung hữu của nhân loạichư thiên thuộc Dục giới rồi, thì sinh vào thú hướng nhân loại và thú hướng chư thiên thuộc Dục giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới gọi là thế giantổn hại không tổn hại. Vì sao?

Vì đã sinh trong thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới rồi thì sắc được thấy bởi mắt, cho đến: pháp được thông tri bởi ý, tất cả là vừa ý cũng không vừa ý, nói chi tiết cho đến: có hình thái bình đẳng cũng có hình thái không bình đẳng. Vị ấy do các duyên như thế nên cảm thọ pha tạp khổ lạc.

Vị ấy do sinh trong thế giantổn hại không tổn hại rồi, nên xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại: sinh trong thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới rồi, thì xúc chạm với các xúc của thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới.

Ở trong nghĩa này, ý nói: xúc của thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới gọi là xúc có tổn hại không tổn hại.

Vị ấy đã xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại: khi xúc chạm với loại xúc như thế thì nhất định cảm nghiệm các loại thọ như thế, tức khi xúc chạm với các xúc thuận khổ lạc tất cảm nghiệm các khổ thọ lạc. Do đây nên nói: xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại rồi, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại.

Pha tạp, tương tạp: khổ thọ, lạc thọ trộn lẫn, tạp loạn hiện tại hiền tiền. Do đây nên nói: pha tạp, tương tạp.

Vị ấy do loại này, nên có loại sinh này: các hữu tình kia có cứ sự sở y, có nhân, có duyên mà sinh ra nơi đó. Do đây nên nói: vị ấy do loại này, nên có loại sinh này.

Sinh rồi lại xúc chạm với các loại xúc như thế: sinh vào thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới rồi, lại xúc chạm với các xúc của thú hướng nhân loạichư thiên thuộc Dục giới. Do đây nên nói: sinh rồi lại xúc chạm với các loại xúc như thế.

Thế nên Ta nói các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo:

Giả sư tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại, hoặc không tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại, thì đồng thời tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại, hoặc đồng thời không tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại;

Nếu tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại, hoặc không tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại, thì đồng thời chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại, hoặc đồng thời không chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại;

Nếu chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại, hoặc không chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại, thì đồng thời sinh trong thế giantổn hại không tổn hại, hoặc đồng thời không sinh trong thế giantổn hại không tổn hại;

Nếu sinh trong thế giantổn hại không tổn hại, hoặc không sinh trong thế giantổn hại không tổn hại, thì đồng thời xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại, hoặc đồng thời không xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại;

Nếu xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại, hoặc không xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại, thì đồng thời cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại, hoặc đồng thời không cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại.

Tức không thể nói: Do đó, Ta nói các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

[[3]] Nhưng do tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại, tức tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại;

Nếu không tạo các thân, ngữ, ý hành có tổn hại không tổn hại, thì không tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại;

Nếu tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại, tức chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại;

Nếu không tích tập tăng trưởng các pháp có tổn hại không tổn hại, thì không chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại;

Nếu chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại, tức sinh trong thế giantổn hại không tổn hại;

Nếu không chiêu cảm được tự thể có tổn hại không tổn hại, thì không sinh trong thế giantổn hại không tổn hại;

Nếu sinh trong thế giantổn hại không tổn hại, tức xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại;

Nếu không sinh trong thế giantổn hại không tổn hại, thì không xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại;

Nếu xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại, tức cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại;

Nếu không xúc chạm với các xúc có tổn hại không tổn hại, thì không cảm nghiệm các thọ có tổn hại không tổn hại.

Do đây nên nói: Thế nên Ta nói các hữu tình kia tùy thuận nghiệp tự tạo.

Đó gọi là nghiệp đen trắng - dị thục đen trắng: nghiệp này là thiện bất thiện, chiêu cảm dị thục đáng yêu không đáng yêu.

iv. Thế nào là nghiệp không trắng không đen - không đưa đến dị thục, có thể tận diệt các nghiệp?

Như Thế Tôn nói cho Bổ-lạt-noa, người hành trì câu chi ngưu giới:

“Viên mãn nên biết! Nếu có thể tận diệt các tư nghiệp đen dị thục đen. Hoặc có thể tận diệt các tư nghiệp trắng dị thục trắng. Hoặc có thể tận diệt các tư nghiệp đen trắng - dị thục đen trắng. Viên mãn nên biết! Đó gọi là nghiệp không trắng không đen - không đưa đến dị thục, có thể tận diệt các nghiệp”.

Ở đây, không phải đen: do đen, không hợp ý, nên gọi là đen, nghiệp này không phải như nghiệp bất thiện ấy. Đó gọi là không phải đen.

Không phải trắng: do trắng, hợp ý, nên gọi là trắng, nghiệp này không phải như thiện nghiệp hữu lậu. Đó gọi là không phải trắng.

Không đưa đến dị thục: nghiệp này không phải như ba nghiệp trước có khả năng chiêu cảm dị thục, đó gọi là nghiệp không đưa đến dị thục.

Có thể tận diệt các nghiệp: nghiệp này là học tư, có thể hướng đến tổn giảm. Vì sao?

Vì nếu học tư, có thể hướng đến tổn giảm, tức đối với ba nghiệp trước có thể tận diệt, hoàn toàn tận diệt, tùy thuận chứng đắc sự diệt tận vĩnh viễn.

Ở trong nghĩa này, ý nói gọi là nghiệp vì có thể tận diệt các nghiệp.

Do đây nên nói: nghiệp không trắng không đen - không đưa đến dị thục, có thể tận diệt các nghiệp.



[1] Skt. catvāri karmāṇi | asti karma kṛṣṇaṃ kṛṣṇavipākam | asti karma śuklaṃ śuklavipākaṃ | asti karma kṛṣṇaśuklaṃ kṛṣṇaśuklavipākaṃ | asti karmākṛṣṇam aśuklam akṛṣṇāśuklavipākaṃ karmakṣayāya saṃvartate; Pāli: Cattāri kammāni—atthāvuso, kammaṃ kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ. Atthāvuso, kammaṃ sukkaṃ sukkavipākaṃ. Atthāvuso, kammaṃ kaṇhasukkaṃ kaṇhasukkavipākaṃ. Atthāvuso, kammaṃ akaṇhaasukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ kammakkhayāya saṃvattati.

[2] cf. Abhidh-k-vy, tr. 28: lụyatelụyate támāl lokaḥ, “Nó băng hoại. Do đó, nó được gọi là thế gian”. Theo đây, từ thế gian (loka) do động từ căn √luj (ruj): tan vỡ. Pāli, S. iv. 52: loko loko ti bhante vuccati. kittāvatā nu kho bhante loko ti vuccatīti. lujatīti kho bhikkhu tsamā loko ti vuccati, “Thế gian, bạch Thế Tôn, được nói là thế gian. Bạch Thế Tôn, như thế nào mà được nói là thế gian? Nó băng hoại, Tỷ-kheo, do đó nó được nói là thế gian”.

[3] Bản Hán: quyển 8.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 923)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1244)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 684)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 756)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 747)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 738)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 891)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 773)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 933)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 935)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 860)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 870)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 809)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 955)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 890)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 832)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 841)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 796)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 894)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 827)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1079)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 857)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 946)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1092)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1101)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 916)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 894)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 751)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1428)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1302)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1266)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1210)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1272)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1406)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1284)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1153)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1201)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1255)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1237)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant