Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tất Cả Chúng Sinh Là Mẹ

11 Tháng Mười 201915:36(Xem: 4887)
Tất Cả Chúng Sinh Là Mẹ
TẤT CẢ CHÚNG SINH LÀ MẸ

Thị Giới

Con Đường Chư Phật Đã Dạy


Quán tất cả chúng sanh là mẹ, là một pháp quán trong việc phát triển tâm Bồ-đề.

Lisa Erckson, một hành giả Phật giáo Kim Cang Thừa và Thiền, viết:

“Đây là một giáo lý sâu xa, thoạt nhìn qua thấy như nói về việc tái sanh, tuy nhiên thật sự nó rộng lớn hơn. Nó giúp chúng ta nhận ra sự kết nối của chúng ta với tất cả chúng sanh, và qua đó đánh thức tâm từ bi tự nhiên của chúng ta, và nó đẩy chúng ta về hướng giác ngộ”. (All beings have been our mother).

Ngài Geshe Kelsan Gyatso hướng dẫn việc phát triển tâm Bồ-đề bằng việc thiền quán về sáu điều, mà theo ngài được truyền bá sâu rộngẤn ĐộTây Tạng, như sau:

a. Coi tất cả chúng sanh là mẹ.

b. Nghĩ nhớ đến tâm từ mẫn của tất cả những bà mẹ chúng sanh.

c. Đáp đền sự từ mẫn này.

d. Phát triển lòng thương yêu.

e. Phát triển tâm đại từ bi.

f. Thực hành đại nguyện (Bồ-đề tâm).

(Teachings on Kindness to Mothers from: Geshe Kelsan Gyatso. Meaningful to Behold: View, Meditation and Action in Mahayana Buddhism. An oral commentary to Shantideva’s A Guide to the Bodhisattva’s Way of Life (Bodhicharyavatara).

Theo giáo lý nhà Phật, chúng ta và tất cả chúng sanh đã lăn lộn trong vố số cuộc luân hồi, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm cuối. Vì vậy số mẹ sinh ra chúng ta cũng vô tận. Và nói như Đức Dalai Lama, chúng ta không biết chắc chúng sanh nào không phải là mẹ của chúng ta trong quá khứ:

“...suy nghĩ về những kiếp sống không có khởi đầu trong vòng tròn hiện hữu này, và rằng qua nhiều kiếp sống bạn đã tùy thuộc vào những người mẹ. Không có một chúng sanh nào có thể chắc chắn rằng không phải là mẹ của bạn trong quá khứ”. (Developing the Mind of Great Capacity, published in Shambhala Sun magazine).

Và ngay trong hiện tại, chúng ta đã và đang được sanh ra bằng toàn thể vũ trụ, thể chất cũng như tinh thần. Thân thể, tâm hồn, trí óc của chúng ta được nuôi dưỡng bằng thực phẩm hữu hình và vô hình của toàn thế giới hay nói rộng ra là toàn thể vũ trụ. Chúng ta được nuôi dưỡngsinh hoạt bằng vô số nhân duyên trong toàn vũ trụ. Cả vũ trụ là mẹ của chúng ta. Tất cả chúng sanh là mẹ của chúng ta.

Trong cơ thể của chúng ta, có nồi cơm điện từ tay những người thợ, nhà phát minh, nhà sản xuất, kỹ sư... nhiều nơi thế giới. Các loại thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể và trí óc của chúng được làm ra do nhiều bàn tay và được trao đổi khắp thế giới. Chúng ta hít thở không khí được trao đổi với tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Đời sống tinh thần phong phú của chúng ta có được từ những khám phá, sàng lọc, trao truyền từ khắp nơi trên thế giới, trải qua nhiều thế hệ...

Tóm lại, tất cả chúng ta tuy là riêng lẻ và độc lập, nhưng đồng thời, tất cả chúng ta gắn bó tương quan nhau. Chúng ta là một. Chúng ta thật sự là con của tất cả chúng sanh, mà cũng là mẹ của tất cả chúng sanh. Trong mỗi chúng ta có tất cả chúng sanh. Trong mỗi và tất cả chúng sanhchúng ta.

Nói riêng về mẹ:

Trong kinh Kinh từ (Metta Sutta), Đức Phật dùng tâm người mẹ để dạy các vị Tỳ-kheo, nói lên tình thương bao la sâu thẳm của người mẹ:

“Giống như người mẹ trong khổ nạn của cuộc đời,

Thương yêubảo vệ con trai duy nhất của mình.

Cũng vậy, vị Tỳ-kheo tu tập tình thương rộng lớn

Đối với tất cả chúng sinh...".

Trong kinh Samyutta N., I. p. 37, chúng ta được đọc: “Một lần có vị trời đến hỏi Đức Phật: ‘Ai là người thân thiết nhất trong gia đình?’, Đức Phật trả lời không do dự: ‘Mẹ là người thân thiết nhất trong gia đình’”.

Khi cảm nhận được tình thương và những ân đức sâu dày của người mẹ, và biết rằng tất cả chúng sanh đều đã từng là mẹ của mình, đã chăm sóc bảo bọc mình qua vô lượng kiếp, chúng ta cảm nhận được lòng lân mẫn sâu xa của tất cả chúng sanh, thấy có bổn phận phải đáp đền. Và khi biết rằng những người mẹ của mình đang đau khổ trong sinh tử luân hồi, có người vì bảo vệ mình mà tạo nghiệp ác phải đọa vào ác đạo, dù là người bình thường cũng không thể cam tâm.

Theo kinh Tăng chi bộ, công ơn cha mẹ không thể đáp đền bằng hạnh phúc thế gian, mà chỉ có thể đáp đền bằng việc hướng cha mẹ đến con đường hành thiện giải thoát:

Có hai hạng người, này các Tỳ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỳ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha. (Tăng chi bộ kinh, HT.Thích Minh Châu, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng).

Một con đường để cứu thoát cho tất cả những người mẹ quá khứ cũng như hiện tại và tương lai của chúng taquy y Tam bảophát tâm Bồ-đề, tâm hướng về sự giác ngộ để cứu độ chúng sanh. Đó là con đường duy nhất - đạt được trí tuệ toàn mãn và từ bi toàn khắp - để tự cứu và cứu những chúng sanh khác.

Ngài Karmapa thứ 17 có lời khuyên cho chúng ta:

“Khi chúng ta tu tập thiền quán về từ bi, nếu chỉ cảm nhận từ bi ở trong tâm thì chưa đủ. Chúng ta cần đẩy sự tu tập đó đến mức độ sâu nhất có thể, chúng ta cần phải quán chiếu về sự đau khổ của chúng sanh trong sáu đường luân hồi. Những chúng sanh đang chịu sự đau khổ cùng cực này cũng là những cha mẹ của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

chúng ta liên hệ mật thiết với tất cả chúng sanh, chúng ta có thể tiến xa hơn vào mối liên hệ đó để mang đến lợi lạc cho họ. Mối liên hệ tuyệt vời nhất chúng ta có thể thực hiện là trau dồi lòng từ bi đến với họ và nghĩ cách làm cho họ giảm bớt khổ đau. Quán chiếu mối quan hệ giữa chúng ta và họ, chúng ta phải tiến đến một mức độ không thể chịu được khi thấy họ phải chịu sự đau khổ lâu hơn. Lòng từ bi lớn lao này rất quan trọng. Không có nó, chúng ta có thể cảm nhận từ bi trong tâm chúng ta, nhưng cảm nhận này sẽ không làm phát sinh sức mạnh toàn bộ của từ bi. Nó không thể tạo ra nền tảng một sự tu tập toàn diện.” (“Sức mạnh của đại từ bi - Buddhadharma Summer 2008).

Tóm lại, quán tất cả chúng sanh là mẹ cho chúng ta bước vào tánh nhất thể bình đẳngđại bitánh Không để tự lợilợi tha, đồng thời trả ơn cho tất cả những người mẹ trong quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nhất thể là chỗ mà trong sâu thẳm của mỗi chúng sanh đều hướng đến trong ý chí tìm về sự toàn vẹn. Nhu cầu hợp nhất, nhu cầu một là nhu cầu của tất cả chúng sanh. Chỉ nơi đó mới thật sự có giải thoát, bình an.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1702)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2016)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1715)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1715)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1885)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1888)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1553)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1725)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2061)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1808)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2366)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1707)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1708)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1670)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2113)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1937)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2080)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1621)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2230)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1587)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1867)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1750)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1815)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1652)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2387)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2100)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2054)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1857)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2206)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1787)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1905)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2134)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1671)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1927)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1922)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2138)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1908)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1759)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1745)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1740)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1856)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2151)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1703)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1676)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2229)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1949)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1767)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2336)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1948)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2056)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant