Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ánh Sáng Là Một Phẩm Tính Của Tánh Không

14 Tháng Mười Hai 201908:01(Xem: 5409)
Ánh Sáng Là Một Phẩm Tính Của Tánh Không

Ánh Sáng Là Một Phẩm Tính Của Tánh Không 

Nguyễn Thế Đăng


Ánh Sáng Là Một Phẩm Tính Của Tánh Không

Chúng ta vẫn thường hình dung Đức Phật có ánh sáng, và tranh tượng đều diễn tả ánh sáng bằng hào quang bao quanh đầu và thân; kinh điển thường nói đến việc Đức Phật phóng ánh sáng trùm khắp. Ánh sáng như để diễn tả Phật, như là một phẩm tính căn bản của Phật.

Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này qua kinh Pháp hội Xuất hiện Quang minh trong bộ Đại Bảo Tích do Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi dịch.

“Lúc ấy, trong pháp hội có một đồng tử tên Nguyệt Quang rời chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, quỳ gối đảnh lễ dưới chân Đức Phật, chắp tay cung kính bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thuở xưa Như Lai tu hạnh nghiệp gì mà có thể được các quang minh như là quyết định quang minh, nhiếp thủ quang minh, phát khởi quang minh, hiển hiện quang minh, chủng chủng sắc quang minh, quảng đại quang minh, thanh tịnh quang minh, khắp thanh tịnh quang minh, vô năng chướng quang minh, trụ vô biên xứ quang minh, vô lượng sắc tướng quang minh, hư không sắc tướng quang minh… Các thứ quang minh như vậy, mỗi quang minh đều cùng quang minh năm sắc hoà hợp hiển hiện, cho đến các sự xanh vàng đỏ trắng… mỗi sự cũng cùng vô lượng vô biên các thứ sắc quang hoà hợp hiển hiện”.

Đồng tử Nguyệt Quang thưa hỏi Đức Phật do hạnh nghiệp gì mà hiển hiện vô số ánh sáng, hoà hiệp vô ngại với nhau, đến độ toàn bộ vũ trụ đầy cả ánh sáng đủ loại, đủ màu sắc và vũ trụ chính là sự hoà hợp của vô lượng vô biên đủ loại ánh sáng như vậy.

“Đức Thế Tôn nói kệ cho Nguyệt Quang:
Ta dùng bất tư nghị
Nghiệp lành làm nhân duyên
Xa lìa những mê lầm
Nên được các quang minh
…”.

Những mê lầm đồng nghĩa với vô minh. Vô minh (avidya) là quan niệm sai lầm, hiểu sai lầm, thấy biết sai lầm. Chính những mê lầm này che đậy thật tướng của các sự vật là tánh Không. Khi những mê lầm vô minh được xa lìa, thì các quang minh kia hiện ra, như khi những đám mây qua đi thì mặt trời hiện ra đầy ánh sáng. Nghiệp lành làm nhân duyên là những phương pháp tu hành khiến xa lìa những mê lầm để cho các ánh sáng hiện ra. Những phương pháp tu hànhnhân duyên để xua tan những đám mây vô minh che ám mặt trời khiến cho mặt trời hiện ra chứ chúng không tạo ra mặt trời đầy ánh sáng. Thế nên kinh nói

Xa lìa những mê lầm, Nên được các quang minh”. “…
Lại dùng nhiều công hạnh
An trụ trong Phật đạo
Dùng huệ Không,
Vô tác Hiện hoà hiệp quang minh…”.

An trụ trong Phật đạo là an trụ trong thực tại tối hậutánh Không. Từ tánh Không ấy, dùng trí huệ về tánh Không, Vô tác mà hiện hoà hiệp quang minh. Quang minh được hiện, được xuất hiện từ trong tánh Không. Quang minh hay ánh sáng là một phẩm tính của tánh Không.

Đầu đề kinh nói “Xuất hiện Quang minh” chứ không nói tạo tác, biến chế ra quang minh. Quang minh vốn hiện hữu trong tánh Không, chỉ cần dùng “nhiều nghiệp lành, nhiều công hạnh” thì quang minh có sẵn ấy xuất hiện.

Kệ nói tiếp:

“… Ví như trong ngoại pháp
Các thứ tướng sai khác
Trong ấy Không,
Vô ngã Không tác, không tâm ý.
Lại như trong nội thân Không, Vô ngã, Vô tác
Trong ấy thị hiện được
Nhiều thứ loại âm thanh
Do Vô tác như vậy
Hiện vô biên sắc quang”.

Ngoại pháp là các hiện tượng bên ngoài, chúng đều rỗng không, vô ngã, vô tự tánh, không tác, không tâm ý. Chúng là tánh Không. Các hiện tượng ở trong nội thân cũng trống không, vô ngã, vô tự tánh, vô tác. Bên trong cũng là tánh Không.

Do bên ngoài là tánh Không (vô pháp), bên trong là tánh Không (vô ngã) mà “do Không, Vô ngã, Vô tác như vậy, hiện vô biên sắc quang”. Do bên ngoài và bên trong đều là tánh Không, vô tự tánh, mà vô biên ánh sáng xuất hiện.

Như vậy, bất cứ khi nào chúng ta thấy ra vô tự tánh, tánh Không của bên ngoài và bên trong, thì ánh sáng vốn sẵn nơi tánh Không xuất hiện. Sở dĩ ánh sáng chưa xuất hiện vì “những mê lầm” cho rằng mọi sự vật, thế giới, con người là có tự tánh khiến che đậy cái thấy biết của chúng ta. Chính sự mê lầm cho rằng mọi vậttự tánh khiến cho mọi sự trở thành cứng đặc, thành vật thể, làm cho ánh sáng không phát ra được, không xuất hiện được. Chính sự mê chấp của chúng ta rằng có tự tánh đã che đậy ánh sáng vốn sẵn có của sự vật.

Đoạn kệ sau nói nếu thấy biết nhãn là tánh Không thì ánh sáng sẽ phát ra, sẽ xuất hiện:

Nương nhãn biết nhãn không
Không chấp trước vào nhãn
Nếu biết được như vậy
Ở nhãn cũng vô hại.
Nếu biết nhãn tánh Không
Thành tựu trí chân thật
Do trí chân thật này
Quang minh sẽ phát ra.
Nếu biết nhãn tánh Không
Dứt hẳn tâm tham dục
Do không có tham dục
Quang minh sẽ phát ra.

Tánh Không của nhãn là sự thanh tịnh của nhãn. Và khi nhãn thanh tịnh thì quang minh xuất hiện:

Nếu khéo biết rõ được
Thanh tịnh của nhãn tánh
Thì cũng khéo biết rõ
Thanh tịnh của nhĩ tánh
Người ấy sẽ chứng được
Quang xuất hiện như vậy.

Cho nên bất cứ lúc nào chúng ta thấy tánh Không, thấy ra sự vô tự tánh của mọi sự vật thì ánh sáng căn bản nơi mọi sự vật xuất hiện. Cái thấy tánh Không vô tự tánh càng sâu rộng thì ánh sáng xuất hiện càng sâu rộng.

Một thí dụ từ xưa là: Khi đứng trước một tấm gương, nếu cho hình bóng trong gương là có tự tánh, có thật, không phải do duyên sanh, rồi chạy theo chúng, thì chúng ta chẳng thể nào nhận ra tấm gương sáng làm nền tảng cho mọi hình bóng xuất hiện. Khi không chạy theo chúng, “không chấp trước vào nhãn”, thì “do không có tham dục” nên chúng ta thấy tấm gương với đầy đủ ánh sáng. Đó là sự thanh tịnh của tấm gương đầy ánh sáng, hay nói theo kinh “quang minh xuất hiện”.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo Số 329 ngày 15-9-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1344)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1315)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1362)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1327)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1282)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1488)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1555)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1603)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1488)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1437)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1238)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1378)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1346)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1436)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1455)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1533)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1386)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1497)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1400)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1363)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1430)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1371)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1547)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1803)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1488)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1791)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1383)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1305)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1527)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1372)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1441)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1602)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1816)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1842)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1652)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1840)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1543)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1499)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2023)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1614)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1548)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1489)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1468)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1546)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1405)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1687)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1665)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1525)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant