Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khoa Học Và Phật Giáo

25 Tháng Mười Hai 201918:40(Xem: 5474)
Khoa Học Và Phật Giáo

KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Nguyễn Thế Đăng

Khoa Học Và Phật Giáo


Khoa học

Những mô hình của con người về thiên nhiên đều có đặc tính toán học. Có thể nói, nếu không có toán học thì không có vật lý học vì không có gì để chứng minhkết luận vật lý học thành những công thức. Nhưng ở thế kỷ XX, chúng ta chạm phải những nghi ngờ về quyền năng của toán học.

Các định lý bất toàn của Kurt Godel xuất bản năm 1931 có thể tóm tắt là: không một hệ thống toán học nào là tự đủ với chính nó, bởi vì trong đó có những định đề không thể chứng minh được trong hệ thống ấy. Muốn chứng minh được những định đề ấy phải ra ngoài hệ thống ấy, phải nhờ một hệ thống khác. Như thế, hệ thống này phải nhờ hệ thống kia và như vậy cho đến vô tận.

Alan Turing thường được xem là cha đẻ của ngành máy tính, cho rằng không có thuật toán nào để giải quyết các Bài toán dừng. Điều này đã được chứng minh trong các máy vi tính dầu hiện đại nhất, thế nào nó cũng có lúc dừng, và người ta không biết lúc nào nó sẽ dừng.

Chúng ta hãy lấy Bài toán trò chơi Ghép hình khỉ trong sách Điều Bất Khả - Giới hạn của khoa học và Khoa học của giới hạn của John D. Barrow, 1998; bản tiếng Việt 2011, Nxb Tri Thức. “Trò chơi này là khối Rubik cho người nghèo. Bộ trò chơi có 9 tấm thẻ vuông, mỗi thẻ in bốn nửa hình con khỉ có 4 màu khác nhau. Yêu cầu của trò chơi là phải sắp 9 tấm thẻ sao cho hình các con khỉ phải khớp với nhau và phải cùng màu. Để giải đáp, một thuật toán máy tính sẽ phải làm việc qua số phương án bằng 9 x 8 x 7 x 6 x 5 x 4 x 3 x 2 x 1 = 362.880. Ta gọi trị số này là “giai thừa 9”, được biểu diễn bằng kí hiệu “9!”. Trị số của giai thừa tăng lên rất nhanh theo số gốc. Trị số của 36! (tức là số gốc tăng lên chỉ 4 lần) gồm có 41 con số, và một máy điện toán chạy qua 36! cách sắp xếp với tốc độ một triệu cách sắp xếp mỗi giây sẽ phải mất 11 tỉ tỉ tỉ năm mới chạy xong. Đây chắc chắn là điều bất khả trên thực tế”.

Một bài toán của Christian Goldbach nêu ra vào năm 1742 là: “Một số chẵn là tổng của hai số nguyên tố”, đến nay vẫn chưa chứng minh được 8 = 3 + 5. Trực quan thì dễ hiểuchứng minh thì gần 300 năm rồi thế giới toán học vẫn chưa chứng minh được.

Dĩ nhiên toán học vẫn còn mãi tiến bộ, nhưng giới hạn của toán học có lẽ vẫn sẽ được mở rộng mãi không cùng.

Về vật lý học, trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hai nền vật lý học, Thuyết tương đối Hẹp và Rộng của Einstein và Vật lý Lượng tử đã làm thay đổi thế giới vật lý học. Ở đây chỉ nói qua về vật lý lượng tử

- Hằng số Max Planck khiến chúng ta không thể biết ở trước 10-43 giây của vụ nổ Big Bang thì vũ trụ là thế nào, cái gì tạo ra vũ trụ. Giới hạn của bức tường Planck là một giới hạn của vật lý học hiện đại.

 - Theo định lý Bất định của Heisenberg (1927), nếu ta biết vận tốc của một hạt thì sẽ không biết vị trí của nó, và ngược lại, biết vị trí của nó thì không biết vận tốc của nó.

- Một nguyên lý căn bản của vật lý lượng tử là Nguyên lý Bổ sung của Niels Bohr: Trong thế giới sóng - hạt của ánh sáng và vật chất, điều ta thấy phụ thuộc vào cách ta quan sát, nghĩa là chủ thể quan sát ảnh hưởng vào đối tượng được quan sát. Nếu chúng ta quan sát theo dạng sóng, đối tượng sẽ thành sóng; nếu chúng ta quan sát theo dạng hạt nó sẽ thành hạt.

Từ đó chúng ta có những khái niệm bất định xứ (non-local), sự mờ nhòe lượng tử, nguyên lý chồng chập, tính ngẫu nhiên, tính bất khả phân và đồng thời… đến độ nhiều nhà khoa học dùng chữ “lãng mạn” để chỉ vật lý lượng tử.

Cả thế kỷ nay các nhà vật lý lý thuyết cố công tìm ra một lý thuyết hợp nhất được Vật lý Tương đối của Einstein và Vật lý Lượng tử vì cả hai đều đã đúng trên mặt thực nghiệm. Lý thuyết được mơ ước đó, được đặt tên là Lý thuyết về tất cả mọi sự (Theorie of Everything), nghĩa là một Lý thuyết Thống nhất toàn bộ vũ trụ.

Các nhà vật lý đã sáng tạo ra Lý thuyết Dây với 11 chiều, nhưng hầu như không thể thí nghiệm được là đúng hay sai vì điều kiện của thế giớivũ trụ của chúng ta không cho phép.

Mới đây nhà vật lý nổi tiếng nhất trong hậu bán thế kỷ XX, Stephen Hawking đã viết trong cuốn Bản thiết kế vĩ đại (2010) cùng với Leonard Mlodinow rằng: “Sự tìm kiếm để khám phá một lý thuyết cuối cùng có thể chẳng bao giờ dẫn đến một bộ thống nhất những phương trình. Mỗi lý thuyết khoa học đem đến một kiểu mẫu riêng của nó về thực tại và điều đó khiến cho khoa học không nói được cái thực tại nào là thực sự và tối hậu”.

Tuy nhiên chúng ta thấy khoa học vẫn tiến bộ, vẫn khám phá ra nhiều cái mới, nhất là ở mặt kỹ thuật để sử dụng trên ngôi nhà trái đất này. Nhưng Lý thuyết về Tất cả Mọi sự thì có lẽ chẳng bao giờ với tới, bởi vì những giới hạn nằm trong chính mọi ngành nghiên cứu và cũng nằm trong ý thức con người. Có lẽ, như Định lý Bất toàn của Godel, chúng ta ở trong hệ thống vũ trụ này nên chúng ta không thể nào hiểu biết hết hệ thống vũ trụ này. Muốn hiểu biết hết vũ trụ này chúng ta phải ra ngoài hệ thống vũ trụ này để qua một hệ thống vũ trụ khác. Đây là điều không thể.

Nếu như phương trình chuyển hóa khối lượng thành năng lượng E=mc² rất kỳ diệuđơn giản của Einstein đã không thể chuyển hóa khổ đau và phiền não của con người thì, chúng ta hãy tưởng tượng, dù cho khám phá ra phương trình Lý thuyết về Tất cả mọi sự, việc trì tụng nó như trì tụng thần chú cũng chẳng thể xóa đi những phiền não, khổ đau của mỗi cá nhân chúng ta. Chẳng có thần dược nào tịnh hóa được những phiền não khổ đau của chúng ta. Nếu làm “quên” được, nó sẽ làm cho chúng ta chết, mà cái chết chắc gì đã xóa hết được. Và chúng ta có làm gì thì vũ trụ này cũng có ngày chết, vì nó đã được sinh ra. Cũng phải nói thêm rằng khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng trong một nền kinh tế nhắm vào tiêu thụ nên con người hiện nay dễ lạc vào một thế giới vật chất mà quên đi thân phận sống chết của mình. Câu hỏi “Tôi là cái gì? Tôi đến từ đâu? Chết, tôi đi về đâu?” của Tây phương từ thời bình minh Hy Lạp vẫn chưa được khoa học giải đáp.

Đạo Phật nói rằng những gì con người khám phá ra ở vũ trụ tương đốivô thường dù đó là những định luật khoa học, đều là những chân lý tương đốiquy ước, vì đối tượng của chúng là những sự vật tương đốivô thường. Khi mọi nhu cầu của cuộc sống làm người đều được đáp ứng bởi khoa học và kỹ thuật, bởi các ngành kinh tế, pháp luật, xã hội… thì đạo Phật vẫn tồn tại và phát triển, bởi vì đạo Phật đáp ứng được cho con người nhu cầu tối hậu (nhu cầu thứ năm theo hình dung của Abraham Maslow): chân lý tuyệt đốitối hậu.

Đạo Phật

Chân lý tuyệt đốitối hậu theo đạo Phật là gì? Làm sao đạt được nó?

Sau đây chúng ta trích vài đoạn trong kinh Lăng-già để tìm hiểu phần nào con đường Phật giáo đi đến chân lý tuyệt đốitối hậu.

Edmund Husserl (1859-1938), người khai sinh ra Hiện tượng luận (Phenomenology) đã nói: “Ý thức là ý thức về cái gì”. Cũng phải nói thêm, Hiện tượng luậntham vọngtìm ra hiện tượng thuần túy và chủ thể thuần túy, chưa bị biến chất bởi những ý tưởng loạn động của con người, nên đã đặt ra nhiều phương pháp như “để vào trong dấu ngoặc” và “giảm trừ hiện tượng luận”… Nhưng, như chúng ta đã thấy, Hiện tượng luận không mấy thành công, và trở thành một phong trào yếu dần theo thời gian.

Ý thức bao giờ cũng hoạt động trong sự chia cách chủ thể và đối tượng. Ý thức chính là sự chia cách ấy nên ý thức không bao giờ lấp đầy được hố sâu ngăn cách chủ thể và đối tượng. Với kinh Lăng-già, sự chia cách ấy không chỉ ở ý thức, mà còn ở năm thức giác quan, thức chấp ngã (ý) và ở trong Tạng thức A-lại-da (tâm), nghĩa là trong toàn bộ tám thức.

Thế nên, kinh nói: “Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức”. Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức nghĩa là vượt khỏi và chuyển hóa sự phân biệt chia cách của tâm thức.

“Phật dạy: Đại Huệ! Ta rõ các pháp chỉ do tâm mà hiện, không có chủ thể nắm bắt và đối tượng nắm bắt, nên nói cái này có nên cái kia có. Nếu không biết các hiện tượng chỉ do tâm mà hiện, vọng suy tính có chủ thể nắm bắt và đối tượng được nắm bắt, chấp trước cảnh ngoài hoặc có hoặc không, đó là có lỗi, chẳng phải chỗ ta nói”.

Người thực hành không chỉ tìm cách xóa bỏ sự phân chia chủ thể - đối tượng chỉ bằng ý thức một cách trí thức, mà bằng toàn bộ thân tâm, tức là bằng Giới Định Huệ.

Sở dĩ con người không tìm được an vui vì nó đã chia cách với những con người và với thế giới, vũ trụ. Có sự chia cách gây ra khổ đau này là do chấp ngã và chấp pháp (những hiện tượng). Cho nên để hoàn nguyên lại một thế giới như thật, không bị chia cách, thì phải xóa bỏ sự chấp ngãchấp pháp giả tạo và hư vọng này đi. Cái thấy thực sự (chánh kiến) là thấy “hai vô ngã”: con người vô ngã (nhân) và những hiện tượng (pháp) vô ngã. Chính cái thấy sự vô ngã, vô tự tánh của “nhân và pháp”, phá tan sự chấp ngãchấp pháp để trả lại cho con ngườithế giới sự thanh tịnh bổn nguyên chưa hề bị chia cắt của nó.

“Lợi lạc của Pháp là gì? Là rõ tất cả các hiện tượng là tâm, thấy hai vô ngã, chẳng nắm giữ tướng, không có phân biệt, khéo rõ các địa, lìa tâm, ý, ý thức. Tất cả chư Phật nơi tất cả các hiện tượng được tự tại, đó gọi là sự lợi lạc của Pháp, vì không sa vào tất cả các kiến nhị biên phân biệt hý luận đoạn thường”.

Thấy được “hai vô ngã” là xóa được sự chấp ngãchấp pháp, lấp đầy được hố sâu ngăn cách giả tạo và hư vọng giữa chủ thể và đối tượng, giữa cái tôi và tất cả mọi sự và giữa mọi sự với nhau.

Vượt khỏi thức để chuyển hóa chúng là thế nào? Kinh cho chúng ta cái hiểu biết về thức và trí:

“Trí là biết được bất sanh bất diệt. Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí. Sa vào tướng và vô tướng do lấy các thứ tướng hữu vô làm nhân là thức. Lìa tướngvô tướng do lìa nhân hữu vô là trí. Có tích tập tướng là thức, không tích tập tướng là trí. Có chuyển động, có sanh là thức. Không chuyển động, không sanh là trí”.

Đây là sự chuyển thức thành trí. Thành tựu sự chuyển thức thành trí này thì:

- Tạng thức A-lại-da bị nhiễm ô bởi phân biệt chia cắt và phiền não vi tế chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí; Trí rộng lớn bao la sáng soi như tấm gương.

- Thức thứ bảy chấp ngã chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí; Trí thấy tất cả mọi hiện tượng đều bình đẳng, nghĩa là cùng một bản tánh.

- Ý thức phân biệt chuyển thành Diệu Quan Sát Trí; Trí thấy sự khác biệt của các hiện tượng nhưng đồng thời vẫn thấy chúng bình đẳng trong bản tánh.

- Năm thức giác quan chuyển thành Thành Sở Tác Trí; Trí làm việc trong thế giới vật chất nhưng vẫn tự do, tự tại vì không còn bị nhiễm ô bởi thức phân biệt sanh ra phiền não.

Đây là thực tại tuyệt đốitối hậu được gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Đây cũng là chân lý tuyệt đốitối hậu theo kinh Lăng-già.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo Số 334 ngày 1-12-2019 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11855)
Hành giả quan sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 15561)
Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 11589)
Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên.
(Xem: 13479)
Hứa hẹn sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn và phát triển các khóa tu học Phật pháp mỗi năm một lần vào mùa nghỉ lễ Phục Sinh... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7827)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã...
(Xem: 12652)
Ở xứ Đức nầy mỗi năm thời tiết được chia ra làm 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông khởi đi từ hạ tuần tháng 12 và chấm dứt vào hạ tuần tháng 3... HT Thích Như Điển
(Xem: 12746)
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị... Tâm Nhiên
(Xem: 14589)
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... Nguyên Siêu
(Xem: 15457)
Lời Thầy nói giống như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược, nơi nào có khổ đau, nơi đó có Bồ Tát... Nguyên Siêu
(Xem: 12093)
Cô không có ấn tượng gì về mẹ ruột của mình, lúc mẹ cô bỏ nhà ra đi cô còn quá nhỏ, hai tuổi là cái tuổi không có ký ức đối với một đứa bé...
(Xem: 13746)
Năm tôi lên 10 tuổi, bố mua về cho một con búp bê. Đó là món quà đầu tiên trong đời tôi nhận được khi kết thúc lớp 4 với kết quả học sinh giỏi.
(Xem: 13962)
Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn...
(Xem: 11520)
Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
(Xem: 15313)
Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết...
(Xem: 12949)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11645)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16870)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 20012)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15968)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13174)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 13117)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13142)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15604)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12292)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13110)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15750)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13843)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 15085)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13800)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13850)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 13039)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13734)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13601)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15288)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14695)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13859)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14166)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13401)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13377)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14601)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13824)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14958)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17663)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14438)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16821)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 18004)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15555)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15368)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 17008)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29346)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant