Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

12 Tháng Giêng 202018:23(Xem: 4555)
Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ 

 Thích Nữ Huệ Trân

Làm Thế Nào

Vạn Hạnh dung tam tế
Chơn phù cổ sấm
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ”      

Đây bài kệ đầy cảm kích, vua Nhân Tông đã làm để truy tán Thiền- Vạn Hạnh, nhà đã mang đạo vào đời, góp phần cực kỳ quan trọng dựng nên triều , một triều đại dân giầu nước mạnh suốt hơn hai trăm năm trong chiều dài lịch sử vàng son của dân tộc Việt Nam. Thầy Huyền Không đã dịch bài kệ ngắn, ghi dấu ấn công đức lượng này như sau:

Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy chống giữ nghiệp vua

Một nhà chân trần, áo vải, ôm bình bát du hóa đó đây góp công trị nước an dân, không phải chỉ hơn hai trăm năm triều ảnh hưởng còn sâu đậm đến ngày nay, thoạt nghe như huyền sử thần thoại, sự thật còn bi tráng gấp bội thần thoại.

Đạo pháp luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; khi đất nước thái bình, đạo vun bồi, nuôi dưỡng đời sống tâm linh trăm họ; khi đất nước suy vong, đạo chia xẻ đau thương qua hình ảnh những Bồ Tát hóa thân lịch sử đã chứng minh, không thời nào không nếu chúng ta khai mở trí tuệ để nhìn bằng tuệ nhãn.

Thời tiền Vạn Hạnh như thế nào Sử Việt những trang  đại hùng, đại lực, đại từ bi cho cả một triều đại huy hoàng hơn hai trăm năm như thế?

Địa danh Cổ Pháp, được ghi nhận nơi chào đời, đặc biệt để trở thành linh địa?

Bối cảnh thời vua Đại Hành rối ren thế nào phải xuống núi?  

Thiền- Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp, thuộc phủ Thiên Đức, sinh ra trong một gia đình mộ đạo Phật. Từ thuở ấu thơ Ngài đã tỏ lộ sự thông minh xuất chúng, làu thông kinh sử, liễu ngộ Lão Giáo, Nho Giáo nhưng thay vi bị ép trong giáo điều, Ngài đã uyển chuyển kết tụ những tinh hoa của Lão, của Nho, hòa hợp với tinh thần từ bi, giác ngộ, của Đạo Phật, tự khai mở cho mình con đường hành trì ưu việt, vừa chấn hưng Đạo Pháp, vừa cứu nước độ dân

Với sự khai mở tuyệt luân đó, Ngài đã chính thức xuất gia năm vừa 21 tuổi. Sự kiện xuất gia tuổi thành niên, thay từ thơ ấu, phải chờ dấu mốc của sự chín chắn, hay, với bản chất trí tuệ vượt bực hơn người, Ngài  chọn quyết định xuất gia như một sứ mạng nhìn thấy trước phải đi bằng đường Đạo mới cứu được đường đời?

Theo tài liệu lịch sử thì tình trạng đất nước Việt Nam thật suy đồi khi vua Đại Hành đã già yếu vẫn chưa lập Thái tử nối ngôi, trong khi nhà vua rất nhiều con trai ai cũng rấp ranh thừa kế ngai vàng. Mầm tranh chấp, hỗn loạn đã thấy , chưa kể sự áp bức, đô hộ thường xuyên của Bắc phương.

Những vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, khi can trường đứng lên chống ngoại xâm thường phải đến cửa chùa, tìm minh để vấn kế, trong thời buổi nhiễu nhương đó, nhiều nhân tài đã phải ẩn thân chốn am thiền để chờ thời cứu dân giúp nước. Ngay như vua Đại Hành cũng được sự trợ giúp của Pháp Thuận, một vị thuộc thiền phái Ti Ni Đa Lưu Chi, đời thứ mười.

Sau khi xuất gia, Vạn Hạnh hoằng hóa đó đây, tra cứu, tìm tòi kinh điển để dịch thuật, phổ biến rộng rãi thêm trong dân gian. Nhưng đó chưa phải mục đích duy nhất của một người uyên bác, không chỉ phụng sự Đạo Pháp còn hành trì Bồ-tát-hạnh trước tai ương thống khổ của đất nước, của dân tộc.

Một buổi chiều, khi Vạn Hạnh dừng chân trước chùa Cổ Pháp, lòng bỗng dưng nao nức lạ kỳ, không phải cây hoa gạo đang trổ bông đỏ rực góc sân chùa, không phải ngọn tháp rêu phong phủ đầy thông khô, cũng không phải tàng-kinh-các im sững ẩn dụ muôn lời-không-lời, không gian phảng phất hào khí của bình Nam dẹp Bắc, của thanh gươm-trí-tuệ Văn Thù.

Vạn Hạnh bước vội qua cổng tam quan thì được Khánh Vân đích thân ra đón. Hai vị đảnh lễ nhau rồi cùng bước vào trai đường. Vạn Hạnh nôn nóng hỏi ngay:

       - Lâu nay chùa ta lạ không?

       - Thưa huynh, đệ vẫn ngày đêm lo kinh kệ, chăm bón dăm luống cải, ít gốc hoa thôi.

       Vạn Hạnh nhìn quanh quất, hỏi tiếp:

       - Sao vắng vẻ quá! Tiểu Công Sơn đâu rồi?

       - Thưa huynh, tiểu Công Sơn đi xách nước còn tiểu Công Uẩn thì đi nhặt củi chưa về.

       Vạn Hạnh nhướng mày, hỏi:

       - Tiểu Công Uẩn? đệ thêm một tiểu nữa ư? Hồi nào thế?

       Khánh Vân vừa rót trà vừa trả lời:

       - Đã lâu huynh không ghé qua nên đệ chưa dịp nói. Tiểu Công Uẩn đứa bị thân nhân đem bỏ trước cổng chùa, đệ nhờ làng xóm tìm tông tích cha mẹ của , năm này tháng khác vẫn bặt âm tín nên đành nuôi trong chùa, lấy họ của đệ họ đặt Công Uẩn. Cũng may, đứa này rất thông minh đĩnh ngộ, kinh kệ học đâu nhớ đó văn chương ứng đáp phần vượt xa tiểu Công Sơn.

       Vừa lúc đó, một chú tiểu ôm củi bước vào sân chùa. Khánh Vân gọi:

       - Công Uẩn, vào chào đi con.

       Công Uẩn đặt củi ngoài sân, vào trai đường, vòng tay thưa:

       - Tiểu Công Uẩn xin cung kính đảnh lễ Phụ.

Vạn Hạnh nhìn chú tiểu nhỏ. Cảm giác nao nức lạ kỳ khi vừa dừng trước cổng chùa lại dấy lên, mạnh mẽ, hoan lạc, cảm kích biên. Cảm giác này đang xoáy mạnh vào lời trăn trối của Thiền Ông, rằng Cổ Pháp linh địa, nơi đây sẽ người anh hùng họ xuất hiện cứu đạo, cứu đời.

Thiền Ông nổi tiếng uyên thâm về phong thủy, địa , đã hết lòng truyền dạy cho đệ tử mình Vạn Hạnh nên bấy lâu nay, Vạn Hạnh đã âm thầm ôm mối u uẩn, lang thang đó đây, tìm tòi chứng nghiệm lời căn dặn của phụ mình tin rằng đã được ân cần truyền lại từ đời Định Không, thuộc dòng thứ ba của thiền phái Ni Đa Lưu Chi.

Tiểu Công Uẩn đã khuất sau cửa trai đường Vạn Hạnh vẫn ngồi lặng, tách nước đã cạn lòng bừng bừng cháy khát.

Cảm nhận được điều nghiêm trọng, Khánh Vân đứng lên, đóng cửa phòng, sẵn sàng nghe lời chỉ giáo của huynh.

Tới giờ tụng Sám Hối, cửa vẫn đóng. Tiểu Công Sơn bồn chồn lo lắng nhưng không dám . Tiểu Công Uẩn thì bình tĩnh lên chánh điện, thắp nhang lạy Phật rồi an nhiên thiền tọa.

       Sáng sớm hôm sau, Tiểu Công Uẩn vâng lệnh phụ, theo Vạn Hạnh về chùa Lục Tổ để được tu tập, rèn luyện thêm về giáo pháp cũng như văn học.

       Khánh Vân gạt lệ nhìn theo người đệ tử hết lòng thương yêu nhưng không thể ích kỷ giữ mãi bên mình biết rằng Công Uẩn theo Vạn Hạnh sẽ phát triển được trọn vẹn tài trí tiềm ẩn trong tâm hồn tràn ngập từ bi khí phách.

Tuy Khánh Vân rất đơn giản, chất phác, nhưng cũng nhận ra khí khái kỳ diệu nơi Công Uẩn. tâm sự với Vạn Hạnh rằng, một lần, tiểu Công Uẩn phạm lỗi, tuy lỗi nhỏ thôi nhưng vẫn bị phạt quỳ hương dưới bệ thờ. Tình cờ, đi ngang qua, nghe Công Uẩn xuất khẩu thành thơ, chỉ hai câu làm giật mình kinh hãi.

Khi Khánh Vân nói lại hai câu thơ đó, chính Vạn Hạnh cũng sửng sốt:

 “Đêm khuya chân mỏi không dám duỗi
Chỉ sợ sơn tắc nghiêng

Thời gian qua như bóng câu, vị tu sỹ trẻ không phụ lòng thầy Bổn-, thầy Y-chỉ.

Công Uẩn luôn hiển lộ trí tuệ tuyệt luân tâm từ bi lượng nên được sự ngưỡng phục từ triều đình tới dân chúng khắp nơi. Chưa ba mươi tuổi, Công Uẩn được tiến cử giữ chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ huy sứ Vạn Hạnh vị cố vấn như bóng với hình.

Tháng ba năm Ất Tỵ, vua Đại Hành băng . Thái tử Long Việt được làm lễ đăng quang nhưng không lâu bị em thái tử Long Đĩnh sai bộ hạ ám sát.

Khi sự việc này xảy ra, hầu hết quan lại trong triều đều hoảng kinh, sợ liên lụy nên bỏ chạy hết. Duy chỉ Thân Vệ Công Uẩn lại lo tẩm liệm, chôn cất vị vua vắn số với đầy đủ nghi thức cho một vị quân vương. Hành động can đảm này đã khiến vua Long Đĩnh nể phục vị tu sỹ trẻ, sắc thái nhu hòa tiềm ẩn khí phách song.

Long Đĩnh ông vua tàn bạo, luân một không hai trong sử Việt. Trong triều thì nịnh thần lũng đoạn, bên ngoài thì dân chúng bị hiếp, đói khổ điêu linh, tiếng oán than thấu trời xanh nhà vua vẫn làm ngơ, đắm chìm trong hoan lạc tửu sắc.

Với cái nhìn bén nhạy của người viễn kiến, Vạn Hạnh biết đây chính lúc phải chuẩn bị tạo ra thiên thời, địa lợi, nhân hòa cứu nước cứu dân.

Trong sự sắp đặt đó, chuyện một cây cổ thụ làng Diên Hồng bị sét đánh trốc gốc. Hôm sau, dân làng ra thu dọn thì thấy sau lớp vỏ, thân cây khắc đậm hàng chữ:

Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành

Dân chúng thỉnh cao tăng tới giảng giải thì được biết rằng, chữ Hòa, chữ Đao chữ Mộc viết gộp lại thành chữ ; chữ Thập, chữ Bát chữ Tử viết gộp lại thành chữ . Câu sấm đó, giảng nôm na sụp, thành”, điềm báo trước nhà sẽ tận nhà sẽ chấn hưng đất nước.

Lời sấm được loan truyền mau chóng trong dân gian. Lòng người náo nức chờ sự đổi thay. Đó Nhân hòađã sẵn. “Thiên thời, địa lợi” do chính nghiệp của vị vua tàn ác tạo ra.

Bởi hoang dâm quá độ, vua Long Đĩnh chết sớm, thái tử mới bốn tuổi lên ngôi, mồi ngon cho Bắc phương! Đây chính thời Vạn Hạnh tải Đạo vào Đời, ân cần thuyết phục Công Uẩn noi gương Thang, , dùng trí tuệ uyển chuyển tình thế để cứu muôn dân.

Đồng thuận với Vạn Hạnh các quan đại thần trong triều , quan trọng hơn hết lòng dân khắp nơi thỉnh nguyện.

Cuộc chính biến diễn ra êm , không một sự phản kháng, chống đối nào.

Chú tiểu Công Uẩn, người con rơi, bị bỏ trước cửa Phật được hai vị cưu mang, nuôi nấng, rèn luyện, đã lên ngôi vua, lấy hiệu Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà suốt hơn hai trăm năm.

Trong suốt triều đại hoàng kim này, các vị vua nhà đều được truyền thừa tinh thần từ bi của Đạo Phật, lấy lẽ Đạo chăn dân, lấy lòng nhân đối xử với kẻ xâm lăng khi phải phá Tông, bình Chiêm để bảo vệ bờ cõi.

Bồ Tát thường xuất hiện nơi địa-ngục-trần-gian, nơi người hành hạ, hủy diệt người. Lần giở trang sử xưa, ai bàng hoàng tự hỏiĐâu Vạn Hạnh? Đâu Công Uẩn?”

Câu hỏi đó, khi đã khởi lên sẽ như những nhát búa nhức nhối đập mãi, đập mãi quanh ta thành những âm thanh dồn ép, bức phá, buộc chúng ta phải vận dụng tai trần mắt thịt để nghe, để nhìn, đâu Vạn Hạnh, đâu Công Uẩn thời nay?

 Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu, một vạn tiếng kêu gào!” (*)

Mùa thu thường được lấy làm bối cảnh cho những diễm lệ, êm đềm. Vậy mùa thu đây lại mùa tang tóc, mùa của vạn tiếng kêu gào!

Hồn thơ như tiếng kinh chiều, theo giòng sinh mệnh nổi trôi của lịch sử, âm thầm ôm ấp hoài bão tải Đạo cứu Đời. Đó phải con đường gian khổ Vạn Hạnh ngày xưa đã đi không?

 Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống lầu
Hạt cải tròn con mắt
Dấu chân người đâu?” (*)

Khổ nạn xoay nhanh như dòng đời, thoắt đây :

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại, bốn vách tường
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn (*)

Theo chân vị Thầy xuống núi tới đây, chúng ta đã thấy phần nào tinh thần tùy duyên hóa độ.

-Vạn-Hạnh hay Tiểu-Công-Uẩn cũng một tấm lòng dâng hiến tải đạo cứu đời; Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa cũng phương tiện dẫn đến Bồ-Tát-thừa, con đường KHAI TAM HIỂN NHẤT, tu bồi Bồ-Đề-tâm trong trái tim từng người con Phật.

Thế nên, Bồ Tát đã đi vào giữa điêu linh thống khổ của nhân gian với Tâm Từ rộng mở:

Tôi đi chấn chỉnh sơn
Hồng rơi vách đá, sa thị thành(*)

Nam Thanh Lương Địa Quán Thế Âm Bồ Tát.

TN Huệ Trân

(Trầm trước viễn ảnh họa Bắc phương)

                                              

(*) Thơ Thiền Tuệ Sỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 921)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1240)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 681)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 753)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 771)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 930)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 859)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 868)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 888)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 919)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 795)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1077)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 856)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 943)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1565)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1100)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1172)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 747)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1423)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1297)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1260)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1267)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1404)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1281)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1145)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1252)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1233)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1358)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant