Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

12 Tháng Giêng 202018:23(Xem: 4611)
Trụ Tích Trấn Vương Kỳ

Trụ Tích Trấn Vương Kỳ 

 Thích Nữ Huệ Trân

Làm Thế Nào

Vạn Hạnh dung tam tế
Chơn phù cổ sấm
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ”      

Đây bài kệ đầy cảm kích, vua Nhân Tông đã làm để truy tán Thiền- Vạn Hạnh, nhà đã mang đạo vào đời, góp phần cực kỳ quan trọng dựng nên triều , một triều đại dân giầu nước mạnh suốt hơn hai trăm năm trong chiều dài lịch sử vàng son của dân tộc Việt Nam. Thầy Huyền Không đã dịch bài kệ ngắn, ghi dấu ấn công đức lượng này như sau:

Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy chống giữ nghiệp vua

Một nhà chân trần, áo vải, ôm bình bát du hóa đó đây góp công trị nước an dân, không phải chỉ hơn hai trăm năm triều ảnh hưởng còn sâu đậm đến ngày nay, thoạt nghe như huyền sử thần thoại, sự thật còn bi tráng gấp bội thần thoại.

Đạo pháp luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; khi đất nước thái bình, đạo vun bồi, nuôi dưỡng đời sống tâm linh trăm họ; khi đất nước suy vong, đạo chia xẻ đau thương qua hình ảnh những Bồ Tát hóa thân lịch sử đã chứng minh, không thời nào không nếu chúng ta khai mở trí tuệ để nhìn bằng tuệ nhãn.

Thời tiền Vạn Hạnh như thế nào Sử Việt những trang  đại hùng, đại lực, đại từ bi cho cả một triều đại huy hoàng hơn hai trăm năm như thế?

Địa danh Cổ Pháp, được ghi nhận nơi chào đời, đặc biệt để trở thành linh địa?

Bối cảnh thời vua Đại Hành rối ren thế nào phải xuống núi?  

Thiền- Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp, thuộc phủ Thiên Đức, sinh ra trong một gia đình mộ đạo Phật. Từ thuở ấu thơ Ngài đã tỏ lộ sự thông minh xuất chúng, làu thông kinh sử, liễu ngộ Lão Giáo, Nho Giáo nhưng thay vi bị ép trong giáo điều, Ngài đã uyển chuyển kết tụ những tinh hoa của Lão, của Nho, hòa hợp với tinh thần từ bi, giác ngộ, của Đạo Phật, tự khai mở cho mình con đường hành trì ưu việt, vừa chấn hưng Đạo Pháp, vừa cứu nước độ dân

Với sự khai mở tuyệt luân đó, Ngài đã chính thức xuất gia năm vừa 21 tuổi. Sự kiện xuất gia tuổi thành niên, thay từ thơ ấu, phải chờ dấu mốc của sự chín chắn, hay, với bản chất trí tuệ vượt bực hơn người, Ngài  chọn quyết định xuất gia như một sứ mạng nhìn thấy trước phải đi bằng đường Đạo mới cứu được đường đời?

Theo tài liệu lịch sử thì tình trạng đất nước Việt Nam thật suy đồi khi vua Đại Hành đã già yếu vẫn chưa lập Thái tử nối ngôi, trong khi nhà vua rất nhiều con trai ai cũng rấp ranh thừa kế ngai vàng. Mầm tranh chấp, hỗn loạn đã thấy , chưa kể sự áp bức, đô hộ thường xuyên của Bắc phương.

Những vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, khi can trường đứng lên chống ngoại xâm thường phải đến cửa chùa, tìm minh để vấn kế, trong thời buổi nhiễu nhương đó, nhiều nhân tài đã phải ẩn thân chốn am thiền để chờ thời cứu dân giúp nước. Ngay như vua Đại Hành cũng được sự trợ giúp của Pháp Thuận, một vị thuộc thiền phái Ti Ni Đa Lưu Chi, đời thứ mười.

Sau khi xuất gia, Vạn Hạnh hoằng hóa đó đây, tra cứu, tìm tòi kinh điển để dịch thuật, phổ biến rộng rãi thêm trong dân gian. Nhưng đó chưa phải mục đích duy nhất của một người uyên bác, không chỉ phụng sự Đạo Pháp còn hành trì Bồ-tát-hạnh trước tai ương thống khổ của đất nước, của dân tộc.

Một buổi chiều, khi Vạn Hạnh dừng chân trước chùa Cổ Pháp, lòng bỗng dưng nao nức lạ kỳ, không phải cây hoa gạo đang trổ bông đỏ rực góc sân chùa, không phải ngọn tháp rêu phong phủ đầy thông khô, cũng không phải tàng-kinh-các im sững ẩn dụ muôn lời-không-lời, không gian phảng phất hào khí của bình Nam dẹp Bắc, của thanh gươm-trí-tuệ Văn Thù.

Vạn Hạnh bước vội qua cổng tam quan thì được Khánh Vân đích thân ra đón. Hai vị đảnh lễ nhau rồi cùng bước vào trai đường. Vạn Hạnh nôn nóng hỏi ngay:

       - Lâu nay chùa ta lạ không?

       - Thưa huynh, đệ vẫn ngày đêm lo kinh kệ, chăm bón dăm luống cải, ít gốc hoa thôi.

       Vạn Hạnh nhìn quanh quất, hỏi tiếp:

       - Sao vắng vẻ quá! Tiểu Công Sơn đâu rồi?

       - Thưa huynh, tiểu Công Sơn đi xách nước còn tiểu Công Uẩn thì đi nhặt củi chưa về.

       Vạn Hạnh nhướng mày, hỏi:

       - Tiểu Công Uẩn? đệ thêm một tiểu nữa ư? Hồi nào thế?

       Khánh Vân vừa rót trà vừa trả lời:

       - Đã lâu huynh không ghé qua nên đệ chưa dịp nói. Tiểu Công Uẩn đứa bị thân nhân đem bỏ trước cổng chùa, đệ nhờ làng xóm tìm tông tích cha mẹ của , năm này tháng khác vẫn bặt âm tín nên đành nuôi trong chùa, lấy họ của đệ họ đặt Công Uẩn. Cũng may, đứa này rất thông minh đĩnh ngộ, kinh kệ học đâu nhớ đó văn chương ứng đáp phần vượt xa tiểu Công Sơn.

       Vừa lúc đó, một chú tiểu ôm củi bước vào sân chùa. Khánh Vân gọi:

       - Công Uẩn, vào chào đi con.

       Công Uẩn đặt củi ngoài sân, vào trai đường, vòng tay thưa:

       - Tiểu Công Uẩn xin cung kính đảnh lễ Phụ.

Vạn Hạnh nhìn chú tiểu nhỏ. Cảm giác nao nức lạ kỳ khi vừa dừng trước cổng chùa lại dấy lên, mạnh mẽ, hoan lạc, cảm kích biên. Cảm giác này đang xoáy mạnh vào lời trăn trối của Thiền Ông, rằng Cổ Pháp linh địa, nơi đây sẽ người anh hùng họ xuất hiện cứu đạo, cứu đời.

Thiền Ông nổi tiếng uyên thâm về phong thủy, địa , đã hết lòng truyền dạy cho đệ tử mình Vạn Hạnh nên bấy lâu nay, Vạn Hạnh đã âm thầm ôm mối u uẩn, lang thang đó đây, tìm tòi chứng nghiệm lời căn dặn của phụ mình tin rằng đã được ân cần truyền lại từ đời Định Không, thuộc dòng thứ ba của thiền phái Ni Đa Lưu Chi.

Tiểu Công Uẩn đã khuất sau cửa trai đường Vạn Hạnh vẫn ngồi lặng, tách nước đã cạn lòng bừng bừng cháy khát.

Cảm nhận được điều nghiêm trọng, Khánh Vân đứng lên, đóng cửa phòng, sẵn sàng nghe lời chỉ giáo của huynh.

Tới giờ tụng Sám Hối, cửa vẫn đóng. Tiểu Công Sơn bồn chồn lo lắng nhưng không dám . Tiểu Công Uẩn thì bình tĩnh lên chánh điện, thắp nhang lạy Phật rồi an nhiên thiền tọa.

       Sáng sớm hôm sau, Tiểu Công Uẩn vâng lệnh phụ, theo Vạn Hạnh về chùa Lục Tổ để được tu tập, rèn luyện thêm về giáo pháp cũng như văn học.

       Khánh Vân gạt lệ nhìn theo người đệ tử hết lòng thương yêu nhưng không thể ích kỷ giữ mãi bên mình biết rằng Công Uẩn theo Vạn Hạnh sẽ phát triển được trọn vẹn tài trí tiềm ẩn trong tâm hồn tràn ngập từ bi khí phách.

Tuy Khánh Vân rất đơn giản, chất phác, nhưng cũng nhận ra khí khái kỳ diệu nơi Công Uẩn. tâm sự với Vạn Hạnh rằng, một lần, tiểu Công Uẩn phạm lỗi, tuy lỗi nhỏ thôi nhưng vẫn bị phạt quỳ hương dưới bệ thờ. Tình cờ, đi ngang qua, nghe Công Uẩn xuất khẩu thành thơ, chỉ hai câu làm giật mình kinh hãi.

Khi Khánh Vân nói lại hai câu thơ đó, chính Vạn Hạnh cũng sửng sốt:

 “Đêm khuya chân mỏi không dám duỗi
Chỉ sợ sơn tắc nghiêng

Thời gian qua như bóng câu, vị tu sỹ trẻ không phụ lòng thầy Bổn-, thầy Y-chỉ.

Công Uẩn luôn hiển lộ trí tuệ tuyệt luân tâm từ bi lượng nên được sự ngưỡng phục từ triều đình tới dân chúng khắp nơi. Chưa ba mươi tuổi, Công Uẩn được tiến cử giữ chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ huy sứ Vạn Hạnh vị cố vấn như bóng với hình.

Tháng ba năm Ất Tỵ, vua Đại Hành băng . Thái tử Long Việt được làm lễ đăng quang nhưng không lâu bị em thái tử Long Đĩnh sai bộ hạ ám sát.

Khi sự việc này xảy ra, hầu hết quan lại trong triều đều hoảng kinh, sợ liên lụy nên bỏ chạy hết. Duy chỉ Thân Vệ Công Uẩn lại lo tẩm liệm, chôn cất vị vua vắn số với đầy đủ nghi thức cho một vị quân vương. Hành động can đảm này đã khiến vua Long Đĩnh nể phục vị tu sỹ trẻ, sắc thái nhu hòa tiềm ẩn khí phách song.

Long Đĩnh ông vua tàn bạo, luân một không hai trong sử Việt. Trong triều thì nịnh thần lũng đoạn, bên ngoài thì dân chúng bị hiếp, đói khổ điêu linh, tiếng oán than thấu trời xanh nhà vua vẫn làm ngơ, đắm chìm trong hoan lạc tửu sắc.

Với cái nhìn bén nhạy của người viễn kiến, Vạn Hạnh biết đây chính lúc phải chuẩn bị tạo ra thiên thời, địa lợi, nhân hòa cứu nước cứu dân.

Trong sự sắp đặt đó, chuyện một cây cổ thụ làng Diên Hồng bị sét đánh trốc gốc. Hôm sau, dân làng ra thu dọn thì thấy sau lớp vỏ, thân cây khắc đậm hàng chữ:

Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành

Dân chúng thỉnh cao tăng tới giảng giải thì được biết rằng, chữ Hòa, chữ Đao chữ Mộc viết gộp lại thành chữ ; chữ Thập, chữ Bát chữ Tử viết gộp lại thành chữ . Câu sấm đó, giảng nôm na sụp, thành”, điềm báo trước nhà sẽ tận nhà sẽ chấn hưng đất nước.

Lời sấm được loan truyền mau chóng trong dân gian. Lòng người náo nức chờ sự đổi thay. Đó Nhân hòađã sẵn. “Thiên thời, địa lợi” do chính nghiệp của vị vua tàn ác tạo ra.

Bởi hoang dâm quá độ, vua Long Đĩnh chết sớm, thái tử mới bốn tuổi lên ngôi, mồi ngon cho Bắc phương! Đây chính thời Vạn Hạnh tải Đạo vào Đời, ân cần thuyết phục Công Uẩn noi gương Thang, , dùng trí tuệ uyển chuyển tình thế để cứu muôn dân.

Đồng thuận với Vạn Hạnh các quan đại thần trong triều , quan trọng hơn hết lòng dân khắp nơi thỉnh nguyện.

Cuộc chính biến diễn ra êm , không một sự phản kháng, chống đối nào.

Chú tiểu Công Uẩn, người con rơi, bị bỏ trước cửa Phật được hai vị cưu mang, nuôi nấng, rèn luyện, đã lên ngôi vua, lấy hiệu Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà suốt hơn hai trăm năm.

Trong suốt triều đại hoàng kim này, các vị vua nhà đều được truyền thừa tinh thần từ bi của Đạo Phật, lấy lẽ Đạo chăn dân, lấy lòng nhân đối xử với kẻ xâm lăng khi phải phá Tông, bình Chiêm để bảo vệ bờ cõi.

Bồ Tát thường xuất hiện nơi địa-ngục-trần-gian, nơi người hành hạ, hủy diệt người. Lần giở trang sử xưa, ai bàng hoàng tự hỏiĐâu Vạn Hạnh? Đâu Công Uẩn?”

Câu hỏi đó, khi đã khởi lên sẽ như những nhát búa nhức nhối đập mãi, đập mãi quanh ta thành những âm thanh dồn ép, bức phá, buộc chúng ta phải vận dụng tai trần mắt thịt để nghe, để nhìn, đâu Vạn Hạnh, đâu Công Uẩn thời nay?

 Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu, một vạn tiếng kêu gào!” (*)

Mùa thu thường được lấy làm bối cảnh cho những diễm lệ, êm đềm. Vậy mùa thu đây lại mùa tang tóc, mùa của vạn tiếng kêu gào!

Hồn thơ như tiếng kinh chiều, theo giòng sinh mệnh nổi trôi của lịch sử, âm thầm ôm ấp hoài bão tải Đạo cứu Đời. Đó phải con đường gian khổ Vạn Hạnh ngày xưa đã đi không?

 Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống lầu
Hạt cải tròn con mắt
Dấu chân người đâu?” (*)

Khổ nạn xoay nhanh như dòng đời, thoắt đây :

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại, bốn vách tường
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn (*)

Theo chân vị Thầy xuống núi tới đây, chúng ta đã thấy phần nào tinh thần tùy duyên hóa độ.

-Vạn-Hạnh hay Tiểu-Công-Uẩn cũng một tấm lòng dâng hiến tải đạo cứu đời; Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa cũng phương tiện dẫn đến Bồ-Tát-thừa, con đường KHAI TAM HIỂN NHẤT, tu bồi Bồ-Đề-tâm trong trái tim từng người con Phật.

Thế nên, Bồ Tát đã đi vào giữa điêu linh thống khổ của nhân gian với Tâm Từ rộng mở:

Tôi đi chấn chỉnh sơn
Hồng rơi vách đá, sa thị thành(*)

Nam Thanh Lương Địa Quán Thế Âm Bồ Tát.

TN Huệ Trân

(Trầm trước viễn ảnh họa Bắc phương)

                                              

(*) Thơ Thiền Tuệ Sỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2063)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2254)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2519)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2549)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2083)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2535)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1873)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1967)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2254)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2780)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1692)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1609)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1796)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1631)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2205)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2363)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2082)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1858)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1785)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1968)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1704)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2688)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1849)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2184)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2145)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2494)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1804)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1987)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1864)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2038)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2611)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3670)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2285)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2289)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1664)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1978)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2315)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2312)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2153)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3114)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2128)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2529)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2048)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2186)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2476)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2052)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2445)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2409)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2998)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant