Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nét Đẹp Của Giới

25 Tháng Hai 202019:24(Xem: 4246)
Nét Đẹp Của Giới

NÉT ĐẸP CỦA GIỚI
Pháp thoại dành cho cộng đồng tu sĩ tại Wat Pah Nanachat 29/5/2006

Ajahn Jayasaro
Diệu Liên Lý Thu Linh -2020


Làm Thế Nào 

 

Tỳ Kheo Jayasaro (thế danh: Shaun Chiverton) sinh năm 1958, tại Anh Quốc.  Năm 1978, ông tham dự khóa thiền tích cực với Sư Sumedho, trải qua một mùa an cư tại Thiền Viện Amaravati, Anh quốc.

Năm 1979, thọ giới sa di tại thiền viện Nong Pah Pong, bang Ubon Rajathani, Thái Lan.

Năm 1980: thọ giới tỳ kheo tại Nong Pah Pong với vị Thiền sư trưởng lão nổi tiếng, ngài Ajahn Chah, là sư tế độ

Từ năm 1997-2001: trụ trì chùa Pah Nanachat (Lâm Tự Viện Quốc Tế), bang Ubon Rajathani, Thái Lan.

***

Ngài Ajahn Chah dạy chúng ta luôn phải nhớ rằng mình là người xuất gia (samana)[1]Chúng ta đã bỏ cuộc sống thế tục lại phía sau để đổi lấy một cuộc sống với quyết tâm đạt được bình an, giác ngộ.  Ngài thường nói là đối với các thói quen thế tục, các hành vi, các giá trị ngày xưa, ta coi như đã chôn chúng xuống, để chào đón những giá trị cao hơn.  Nhưng chính xác chúng ta phải hành xử thế nào theo cách của người xuất gia?  Trong “Ovada Patimokkha”[2], Đức Phật đã đề ra các nghi thức cơ bản và quan trọng cho người đi theo con đường đạo.  Qua đó ta thấy Đức Phật nhấn mạnh đến nguyên tắc vô hại nhiều nhất.  Với cuộc sống của người tu sĩ, chúng ta mang đến cho thế giới món quà của sự vô hại.  Người ta có thể ngưỡng mộ cuộc sống của chúng ta, hoặc cũng có thể chẳng quan tâm, hay đôi khi còn chê trách, nhưng dầu họ có phản ứng như thế nào, chắc chắn họ không hề cảm thấy bị chúng ta đe dọa.  Khi nhìn thấy một tu sĩ Phật giáo, họ an tâm, vì biết rằng người tu sĩ không nguy hiểm đối với họ.  Ngay cả các sinh vật, khi chúng nhìn thấy một vị tu sĩ Phật giáo, chúng có thể cảm nhận là mình không hề bị nguy hiểm.  Đây là một điều rất đặc biệt.

Đúng là bất thường phải không, khi ta quan tâm đến cả những sinh vật nhỏ bé nhất –chứ không chỉ đối với con người, không chỉ đối với những con vật dễ thương như các chú ngựa Shetland, những chú mèo lông mượt, mà ngay cả đối với các con sâu trăm chân, các con tắc kè và kiến lửa độc hại.  Quý vị sẽ nhận thấy rằng khi mình đã giữ giới trong sạch, chân thành một thời gian thì ý nghĩ tước đoạt mạng sống của một con rắn khổng lồ hay một vi sinh trùng độc hại cũng trở thành gần như là điều không thể nghĩ tới.  Qua sự vun trồng giới (hành động đạo đức) và tâm từ (sự phát triển tình thương yêu) thì sự giết hại không còn là một lựa chọn nữa.  Là tu sĩ, chúng ta thực hành để có thể quán sát rõ mối liên hệ giữa sự dốc lòng giữ các giới với việc thực sự là người vị tha, luôn vì người khác.  Nếu ta tiếp tục nhiễu hại tha nhân bằng thân và khẩu, thì lòng từ của ta thực nông cạn, và không thể đưa ta đến an lạcTương tự, nếu ta cố giữ giới luật một cách cứng nhắc, không có tình, không tâm từ, không có trái tim nhân hậu, tử tế, thì ta có thể dễ dàng rơi vào cái bẫy của tự mãn, tự cho là mình đúng, một hình thức của tự tôn, dễ đưa đến vô đạo đức.  Đó được gọi là đánh mất đường hướng.

Sự tu tập giới hạnhtâm từ bắt đầu có kết quả khi ta không coi sự sống và an toàn của ta có chút nào quan trọng hơn sự sống của một con ruồi hay con muỗi.  Tại sao cuộc sống của ta lại quan trọng hơn của con muỗi?  Đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi chúng sanh đều muốn được hạnh phúc và sợ đau đớn, do đó ta cần kiềm chế tất cả mọi hành động có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hay làm tăng đau đớn cho chúng sanh khác.  Giới là một sự cúng dường (rộng lượng), một món quà của sự không sợ hãi và sự che chở cho tất cả mọi chúng sanh

Để sống trong các giới hạn đã được đề ra bởi giới luật, chánh niệm về nghĩa vụ của mình phải luôn có mặt; sự thiện xảo, vi tế phải luôn được duy trì.  Với trí tuệ và sự hiểu biết về luật nhân quả, chúng ta tránh sự giết hại, sự nhiễu hại, làm đau bất cứ sinh vật nào bằng lời nói hay hành động.  Dần dần các thiện ý sẽ chuyển đổi hành động, chúng ta sẽ có thể chế ngự các tâm ngang bướng của mình.

‘Không hành động’ hay thu thúc là một loại sáng tạo.  Trong các tác phẩm nghệ thuật Trung Quốc, chỉ một phần nhỏ của khung vẽ được sử dụng; hiệu ứng và cái thần của bức tranh được biểu lộ bởi sự liên hệ giữa hình thức vẽ hay khu vực vẽ, và phần không vẽ.  Đúng ra chính phần khung trắng rộng lớn để trống đã tạo cho các nét bút lông đen thêm vẻ đẹp, thêm có hồn.  Vì thế nếu bạn nói với một nghệ sĩ vẽ tranh Trung Quốc, ‘Thật là phí khung vẽ!’, anh ta sẽ cười vào mũi bạn.  Nhưng trong cách hành xử của con người, đôi khi chúng ta không thấy điều đó.  Rất ít khi chúng ta  ghi nhận rằng có một số việc ta làm có sức nặng, có ý nghĩa cao thượng, chính là vì có những thứ  ta không làm.  Như sự kiếm chế một số hành động, lời nói, ý nghĩ hay sự phóng dật một cách thiện xảo – đó chính là sáng tạo.

Các nghệ sĩ và nhà văn đề cập đến điều này thường xuyên. Họ có xu hướng đồng ý rằng nghệ thuật nằm trong chỉnh sửa -trong những cái chưa được kể đến.  Nhiều nhà văn sẽ nói rằng  để viết với một phong cách đơn giản, khó hơn cách viết văn hoa, màu mèĐơn giản là một kỹ năng cần phải học; nó không đến một cách dễ dàng. Và đây là một khía cạnh khác của cuộc sống, đúng không, khiến cho đơn giản trở thành một tiêu chuẩn để quay về. Chúng ta không chỉ phải kiềm chế sự vô đạo đức mà còn phải từ bỏ những phiền hà vô ích. Chúng ta có thể đo lường sự tu tập bằng cách xem cuộc sống của mình đơn giản tới đâu. Chúng ta có thể tự hỏi: Cuộc sống của tôi có phức tạp lắm không? Nếu có, có lẽ chúng ta cần phải quay về với những điều cơ bản. Hình ảnh cần khung. Chúng ta cần những giới hạn khôn ngoan cho hành động của mình. Nếu không cuộc sống của chúng ta trở nên lộn xộnnăng lượng của chúng ta tiêu tan.

Trân trọng vẻ đẹp đơn giản, tìm niềm vui trong sự giản đơn khiến tâm ta được yên bình.  Còn gì có thể đơn giản hơn là đề mục chỉ quán trong thiền? Cho dù đó là quá trình thở hoặc niệm từ Buddho, kinh nghiệm thống nhất tâm trí trong thiền đi ngược lại với toàn bộ xu hướng tăng sinh tâm thần và tình cảm (papañca)[3]. Thông qua thiền, chúng ta thụ hưởng được hương vị của sự đơn giản trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Với các lĩnh vực bên ngoài, trong mối quan hệ của chúng ta với người và thế giới vật chất, chúng ta dựa vào các nguyên tắc nhất định để hỗ trợ sự đơn giảnchúng ta tìm kiếm. Quan trọng nhất trong số này là không áp lực bản thân và người khác.

Là người xuất gia, chúng ta cố gắng hành động với lòng tôn trọng cuộc sống, tràn đầy lòng từ bi, tin yêu và vị tha. Và chúng ta tu tập để bù đắp cho cuộc sống còn nhiều thiếu sót.  Sự thiêng liêng của cuộc sống, và tiềm năng thức tỉnh của tất cả chúng sanh là cơ sở cho 227 giới luật của người xuất gia.  Khi thiền sư Ajahn Chah hỏi ngài Ajahn Mun về giới luậtlên tiếng lo ngại rằng có quá nhiều quy tắc để trở thành sự hướng dẫn cụ thể cho hành động.  Ngài Ajahn Mun chỉ ra hiri (cảm giác xấu hổ vì các hành vi bất thiện) và ottapa (sự kinh sợ có trí tuệ đối với hậu quả của những hành động bất thiện) như là trung tâm điểm của các giới luật trong tu viện.  Ngài dạy rằng việc phát triển hai yếu tố này và sự thực hành giới luật đã đủ tuyệt vời.  Các chú giải cho rằng hai pháp này chủ yếu dựa vào lòng tôn trọng bản thân và người khác. Tôn trọng cuộc sống riêng của chúng ta và của người khác là nền tảng của hành vi cao quý. Vì vậy, chúng ta tu tập, rèn luyện để tăng cường ước nguyện không làm hại –vô hại đối với người, vô hại đối với bản thân- luôn mang trong tâm ý muốn đem lại lợi ích cho mình và cho người.  Ta càng mở lòng ra đối với các cảnh khổ, tình nhân ái càng phát sinh.  Ta càng nhận thức rằng khi nào mình không phải là một phần của lời giải, thì chắc chắn ta là một phần của vấn đề.

Thực ra, phúc lợi của bản thân và của người khác bổ sung lẫn nhau. Nếu chúng ta thực sự hiểu được phúc lợi riêng của mình là gì, thì ta không thờ ơ trước phúc lợi của người, vì trong khi giúp đỡ  người khác, ta phát triển đức hạnh của mình. Tương tự, nếu ta thực sự hiểu những gì là phúc lợi của người, thì ta không thờ ơ với phúc lợi riêng của mình, vì càng có nhiều trí tuệan bình, ta càng có thể thực sự mang lại lợi ích cho người hơn.  Khi dường như giữa phúc lợi của bản thân và của người có xung đột, thì đó thường là dấu hiệu của sự mập mờ về bản chất của phúc lợi.

Nguyên tắc cơ bản thứ hai bao trùm cuộc sống của người xuất gia chúng ta là sự tự tại, bằng lòng. Chúng ta được dạy phải trau dồi lòng biết ơn và biết đủ đối với y áo, thực phẩm, chỗ trú ngụ và thuốc men mà chúng ta được cúng dường, dầu chất lượng chúng có như thế nào. Chúng ta đi ngược lại với thế tục là luôn muốn được nhiều nhất, được cái tốt nhất.  Chúng ta sẵn sàng bằng lòng với cái tốt thứ hai hay thứ ba.  Chúng ta cũng hoàn toàn hạnh phúc với những thứ tồi tệ nhất, những thứ mà không ai khác muốn. Đó là một khám phá tuyệt vời. Dù được cúng dường thứ gì, chúng ta cũng nhắc nhở bản thân, vậy là đủ tốt. 'Người đi khất thực không được chọn lựa'. Ngay cả những vật dụng nhỏ nhoi nhất mà chúng ta sử dụng, cũng đã được cúng dường với tín tâm, và đã được thanh tịnh hóa bởi tâm từ của thí chủ.  Bổn phận của chúng tasử dụng tốt các vật dụng đã được dâng cúng với chánh niệmtrí tuệ. Đức Phật dạy rằng các công đức mà người thí chủ nhận được, trực tiếp ảnh hưởng bởi tâm thanh tịnh của chúng ta khi tiếp nhậnsử dụng các món quà của họ. Do đó, cuộc sống của chúng ta, dầu độc cư, luôn bị ảnh hưởngảnh hưởng đến người khác.

Biết đủ có nghĩa là chúng ta không lãng phí thời gian toan tính tìm nhận những thứ chúng ta không có hoặc không được phép có.  Nhờ đó, chúng ta có cơ hội để sử dụng thân cho các hoạt động lành mạnh hơn và tâm trí cho những suy nghĩ thiện lành hơn. Là người xuất gia, chúng ta không ao ước vật dụng của huynh đệ, hoặc nhìn chúng với con mắt hẹp hòi.  Chúng ta còn không được phép đụng vào tài sản của người khác trừ khi được phép.

Giới luật đưa ra nhiều quy tắc chi tiết liên quan đến hành vi của ta đối với thế giới vật chất. Theo truyền thống tu trong rừng, lý do thứ hai khiến người tu sĩ bị trục xuất là hành vi phạm tội trộm cắp, ngay cả đối với những thứ có giá trị nhỏ nhất, như một baht tiền Thái (khoảng ba ngàn VND). Trong các thông báo chính thức tại buổi lễ xuất gia, vị sư chủ lễ dạy các tân sa-di không được lấy bất cứ thứ gì không thuộc sở hữu của mình, dầu chỉ một ngọn cỏ.

Với tiêu chuẩn đó -một ngọn cỏ- là cốt tủy của việc 'rời khỏi thế gian'. Nó đòi hỏi một sự thay đổi triệt để với quan điểm thế tục.  Một tiêu chuẩn như thế không chỉ khác đối với kẻ trộm cắp mà cả đối với nhiều công dân biết tôn trọng pháp luật. Có rất ít người không tận dụng lợi thế của một số lỗ hổng trong pháp luật, nếu họ hoàn toàn chắc chắn là họ không bị kết tội.  “Ai cũng làm vậy mà, tôi có ngốc đâu mà không làm’.  Sự liêm chính không phải là không có bên ngoài các tu viện, nhưng với cả một cộng đồng mà biết tuân theo các nguyên tắc khắt khe này là rất hiếm. 

Căn bản cuộc sống hàng ngày của người tu sĩ bao gồm việc nỗ lực từ bỏ phiền não và phát triển các phẩm chất lành mạnh thông qua thực hành thiền.  Ta dành nhiều giờ trong ngày để tọa thiềnkinh hành.  Dầu không phải lúc nào ta cũng hài lòng với kết quả của những nỗ lực của mình, nhưng ít nhất ta cũng ghi nhận rằng mình đã thực hiện những điều cụ thể để thanh lọc tâm trí. Nếu có so sánh, ta thấy rằng việc huân tập các giới luật dường như không thể tả, nhưng hiệu quả của nó không thể đo lường.

Để duy trì tâm nguyện gìn giữ giới luật và các nghi thức trong tu viện, chúng ta phải nhớ rằng cuộc sống tâm linh không chỉ là về những điều ta làm, mà còn về những điều ta không làm. Thu thúc, kiềm chế các thứ, không phải ngay lập tức đem lại cảm hứng hay ấn tượng. Chúng ta không thấy sự tiến bộ nổi bật nào - giống như ta có thể cảm nhận được khi tọa thiền hay ẩn tu tốt-  trong việc không làm hại không thâu tóm, hoặc không lấy vật không phải của mình.  Nhưng thực sự có sự chuyển hóa, dầu chậm như cây kim chỉ giờ của đồng hồ.  Giới luật thực sự là của báu.  Nó là công đức, là ba-la-mật.  Thật tuyệt vời biết bao khi ta sống cuộc sống này một cách chân thật, với giới luật được tích lũy đều đặn và rồi chín muồi trong tâm.  Đức Phật dạy rằng giới luậtvòng hoa đẹp nhất dành cho con người, là hương thơm độc nhất lan tỏa khắp nơi.  Nhưng quan trọng là ta phải luôn nhớ đến giới, để góp nhặt nét đẹp của nó, khiến nó tươi mát, bình an trong tâm trí ta.

Nguyên tắc thứ ba liên quan đến đời sống của người xuất gia là sự trung thực, thúc liễm và trong sạch trong các vấn đề liên quan đến bản năng tính dục của thân.  Việc những người thanh niên trẻ, có thể sống hoàn toàn độc thân như quý sư tại đây, là điều gần như không thể tin được đối với nhiều người ngoài thế gian. Họ nghĩ rằng chúng ta phải có cách gì đó để giải tỏa ham muốn tính dục, rằng chúng ta phải có quan hệ đồng tính, hoặc thủ dâm.  Họ không nghĩ rằng người ta thực sự có thể sống theo cách này. Ngày nay người ta càng khó tin rằng các cộng đồng nam giới có thể sống một cách hoàn toàn trong sạch, mà không bị nhiễu loạn, đè nén hay có bệnh ghét phụ nữ.  Ngược lại thì có.  Đó là một cách sống thanh cao, đầy trí tuệ. Và cuộc sống đó không phải luôn dễ dàng, chúng ta ai cũng có những lúc cảm thấy bị thử thách.  Đó là một cuộc đấu tranh, và nó đáng cho chúng ta tự hào một cách chân thật, chỉ vì chúng ta có thể thực hiện điều đó.

Do tiêu chuẩn hoàn hảo này mà ta có thể bắt đầu hiểu toàn bộ bản chất của tính dục. Chúng ta bắt đầu thấy tính duyên khởi của nó: phát khởi và qua đi như thế nào; không có bản ngã như thế nào, điều gì nuôi dưỡng, tạo sức mạnh cho nó, cho dù đó là các điều kiện vật lý, thực phẩm, hay sự thiếu kiềm chế hoặc đắm chìm trong tưởng tượng. Chúng ta bắt đầu nhận thấy những đau khổ tiềm ẩn trong bất cứ sự dính chấp nào.  Nhưng chúng ta chỉ có thể giữ khoảng cách với nó, có thể quán chiếu về nó và nhìn nó như nó là, bằng cách kiềm chế các biểu hiện vật lý và trong ngôn từ.

Có một điều quan trọng cần nói về các uế nhiễm ở đây: rằng chúng ta phải ghìm chúng xuống trong tâm trước khi có thể buông bỏ chúng. Và cách chúng ta ghìm một cái gì đó xuống trong tâm là kiềm chế một cách có ý thức, hoặc chịu đựng cho qua khi có ý muốn thể hiện chúng qua thân hay khẩu.  Đó là nơi mà mối liên hệ giữa hành vi đạo đức, thiền địnhtrí tuệ trở nên rất rõ ràng. Khi nào chúng ta còn thể hiện cảm xúc tình dục ra bên ngoài, hoặc nói những lời khiêu gợi, bất cẩn về tính dục, thì chúng ta không thể nào kiềm chế nó. Nó không đứng yên.  Nó vẫn còn được nạp năng lượng. Nó vẫn tiềm ẩn bên trong; chúng ta vẫn chưa dập tắt ngọn lửa hoàn toàn. Vì thế, chúng ta phải tìm cách lội ngược dòng tham ái. Và để làm được điều đó, chúng ta phải khao khát vượt thoát hẳn các vấn đề tính dục. Chính khát vọng đó, cũng như chính sự kiềm chế mới giúp phân biệt người xuất gia và người thế tục.

Vì vậy, với tư cách là những nhà sư độc thân, chúng ta có cái nhìn mới về các cảm xúc tính dục đối với phụ nữ -một nửa nhân loại. Chúng ta tập nhìn phụ nữ lớn tuổi như là mẹ, cùng trạc tuổi như là chị, trẻ hơn như là em. Chúng ta thay thế các cảm nhận tính dục về phụ nữ bằng những ý nghĩ thiện lành.  Đó là một tặng phẩm tuyệt vờichúng ta có thể dành cho người phụ nữ.

Chúng ta yêu sự thật, đó là nguyên tắc thứ tư trong giáo PhápChúng ta nguyện duy trì sự liêm khiếttrung thực trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Trung thực ở đây bao gồm không giả dối, không gian xảo, không đạo đức giả, không cố gắng tạo ra hình ảnh không thực sự là mình.  Điều này có nghĩa là không cố gắng để giấu lỗi của mình, hoặc phóng đại các nết tốt của mình.   Mục đích là để phát triển sự ngay thẳng, rõ ràng. Đây cũng là một quá trình hai chiều. Chúng ta càng trung thực với bản thân về cảm giácsuy nghĩ của mình, chúng ta càng thấy dễ dàng trung thực với người hơn.  Tương tự, chúng ta càng huân tập để trung thực với các mối liên hệ bên ngoài, chúng ta càng dễ dàng trung thực về những gì đang xảy ra bên trong ta hơn.

Cảm giác về ngã là trở ngại lớn trong việc huân tập tánh trung thực. Chúng ta thường bám vào ý nghĩ mình là thế này, thế kia hoặc muốn mình được như thế này, thế kia.  Chúng ta sẽ thấy khó khăn để chấp nhận những gì không phù hợp với hình ảnh mà mình tự xác định với. Chúng ta cảm thấy khó chịu, xấu hổ, và tìm lý do để chối bỏ chúng.  Ai cũng muốn được ưa thích, tôn trọng. Không ai thích mất mặt. Vì vậy, sự liêm chính đòi hỏi lòng can đảm. Một quyết tâm không suy suyễn cho sự thật –đó là sức mạnh, là uy lực cần được phát triển.

Vì thế, trên con đường đi đến giác ngộ, chúng ta có được niềm vui và niềm tự hào trong việc giữ gìn, bảo vệ chân lý. Chúng ta quán tưởng "saccanurak" –một từ mà Đức Phật đã sử dụng để chỉ lòng yêu sự thật, trung thành với sự thật, dốc lòng vì sự thật, và cẩn trọng để được trung thực về những gì ta thực sự biết; có nghĩa là phải rõ ràng trong lời nói, để chỉ thốt ra những lời mà ta biết là chính xác; cởi mở với quan điểm của người khác, không nghĩ rằng những gì ta biết hiện nay là sự thật tuyệt đốithời hạn; tập phân biệt giữa những gì ta biết và những gì ta tin, những gì ta nghĩ và những gì ta nhận thức- đừng nhầm lẫn chúng.  Thường khi người ta nói rằng họ biết điều gì đó, có nghĩa là họ tin điều đó. Những người có khuynh hướng tâm linh thường xem niềm tin mạnh mẽ của họ là trí tuệ trực tiếp.   Đức Phật dạy rằng chúng ta quan tâm, bảo vệ sự thật bằng cách tỉ mỉ phân biệt những gì chúng ta biết như là một kinh nghiệm trực tiếp khác với những gì ta tin là sự thật.

Cuối cùng, nguyên tắc thứ năm hay giới thứ năm là sự điềm tĩnh.  Ở đây, từ này được dùng để diễn tả sự rõ ràng, nhạy bén của tâm, chắc chắn là hơn hẳn các trạng thái tâm hoang mang, ám độn hay các trạng thái tâm khác.

Tâm phóng dật hay trạng thái tâm biến đổi do ma túy và các trạng thái tâm khác, tất cả vẫn còn trong bóng tối.  Chúng vẫn còn lẫn lộn với các trạng thái khác của vô minh.  Ngay cả người có kinh nghiệm về nhiều mặt khác nhau của thực tại, mà không có trí tuệ và sự hiểu biết về trí tuệ, cũng không ích lợi gì.  Ví như ta có thể thay đổi được một căn phòng nào đó của tòa nhà vô minh, nhưng vẫn còn ở trong tòa nhà đó, vẫn chưa ra khỏi đó, thì ta vẫn đang ở trong tù.  (…)

Vì thế, hãy quán chiếu các giới luật mang đến cho cuộc sống sự thanh thoát, vẻ đẹp và ý nghĩaNhận ra mức độ mà chúng đã là một phần đời sống của ta, và tiếp tục trau dồi chúng một cách có ý thức: nguyên tắc vô hại, chân thật, liêm chính, thu thúc, tình yêu dành cho chân lý, biết tiết độ, và trên tất cả là sự luôn mài giũa và làm cho rõ ràng cảm nhận về cái biết.

Diệu Liên Lý Thu Linh -2020

(Lược dịch từ THE BEAUTY OF SILA, một bài pháp thoại của đại đức Jayasaro).

 

 



[1] Người từ bỏ, kẻ khổ hạnh, người tu vào thời của Đức Phật; những người hòa bình.

[2] Không làm điều xấu, làm điều lành, thanh lọc tâm –đó là lời dạy của Đức PhậtKhổ hạnh bậc nhất là sự kham nhẫnĐức Phật dạy rằng Niết-bàn là tối thượng.  Những người đã chứng đắc không làm hại người khác; kẻ gây hại cho người, không phải là sa-môn.  Không mắng nhiếc, không tác hại, tu tập kiềm chế theo Patimokkha, tiết độ trong ăn uống, ngủ nghỉ, tinh tấn rèn luyện tâm –đó là lời dạy của Đức Phật.

 

[3] papañca:  có nhiều nghĩa: sự bành trướng, phóng tâm .  Hay ‘Papañca: đây là một đồng nghĩa cho ái, các kiến giải và mạn…TK Giác Lộc dịch, KHÁI NIỆM & THỰC TẠI, https://www.budsas.org/uni/u-kntt/kntt-02.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 992)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1168)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1172)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1741)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1143)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant