Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Nạn Dịch Covid-19 Nhìn Lại Sự Sai Khác Trong Cách Đối Diện Với Bệnh Tật Giữa Thánh NhânPhàm Phu

13 Tháng Ba 202012:43(Xem: 5275)
Từ Nạn Dịch Covid-19 Nhìn Lại Sự Sai Khác Trong Cách Đối Diện Với Bệnh Tật Giữa Thánh Nhân Và Phàm Phu

Từ Nạn Dịch Covid-19 Nhìn Lại Sự Sai Khác Trong Cách Đối Diện
Với Bệnh Tật Giữa Thánh NhânPhàm Phu

Minh Tuệ Hồ Văn Tiến

cach doi dien banh tat

 

Đứng trước tật bệnh, bậc thánh thì chánh niệm tỉnh giác xem chúng chỉ thuần là thân bệnh như những gì nó đang diễn ra, còn người phàm tự mình nhào nặn và gia tăng thân bệnh ấy với cường độ cao hơn, tức tâm bệnh!

Cuộc sống mà không bệnh hoạn với ốm đau thì ai mà chẳng hy cầu, ước được. Nhưng đó chỉ là những ảo kiến viễn vông, mà con người không bao giờ thành tựu. Vì khi sự hiện hữu của con người phải và  luôn gắn liền với thân mạng, đồng nghĩa với việc hữu thể ấy tồn tại bất phân ly với bệnh tật, do vậy Đức Phật dạy: “Phàm có thân thể là bị bệnh thúc ép. Đáng bệnh, chúng sanh bị bệnh vây khốn”[1], điều này về sau  được Trần Thái Tông tái khẳng định trong Khóa Hư Lục: “Đại để có thân thì có bệnh; ví bằng không bệnh cũng không thân”[2]. Mối liên hữu giữa thân và bệnh là một logic tất yếu, không thể khước từ được, nếu có sự khước từ này thì kẻ ấy là người vô trí: “Ai mang cái thân này, này Gia chủ, lại tự cho là không bịnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải là người ngu”[3]. Tuy nhiên trong kho tàng kinh điển, tồn tại trường hợp ngoại lệ, đó là tôn giả Bakkula. Trong suốt 160 năm hiện hữu, với phân nữa quãng đời sống theo hạnh xuất gia, tôn giả không biết đến bệnh là gì, điều đó được biết qua lời tự thuật “Tôi không bao giờ nhận thấy có bệnh khởi lên, dầu cho một chốc lát”[4] và được Đức Phật liệt vào vị đệ tử tối thắng của Ngài về sự kiện không có bệnh hoạn: “Trong các vị đệ tử…không có bệnh hoạn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bakkula”[5]. Nhưng khác với người ngu ở chỗ, tôn giả Bakkula không hề vênh váo tự đắc về sự vô bệnh của mình. Tất nhiên đây chỉ mới luận bàn về thân bệnh, mà chúng ta có thể thấy với hơn 40 chục loại bệnh của thân được Đức Phật liệt kê cho Ananda, từ ho hen, ghẻ lở, cho đến trĩ, đái đường, ung nhọt… [6] Và bệnh là nghiệp quả của việc hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. [7]

Căn cứ mẫu đối thoại giữa tôn giả Xá-lợi-phất với gia chủ Nakulapità (Hán dịch là gia chủ Na-câu-la) trong Kinh Tương Ưng Bộbài kinh song hành của nó trong Hán tạng thuộc Kinh Tạp A-hàm (Kinh 109. Trưởng Giả). Đọc kỹ chúng ta mới gián tiếp thấy rằng nội hàm của bệnh không chỉ đơn thuần là sự bất hòa của tứ đại hay sắc, sinh ra 404 thứ bệnh như thường thấy [8], mà nó còn bao hàm cả sự biến hoại hay đổi khác của thọ, tưởng, hành và thức. Sự chuyển dịch ấy được gọi là thân bệnh và ai cũng mắc phải. Nhưng sự khác nhau giữa bậc thánh và người phàm  là phản ứng trước sự biến đổi, chuyển dịch của ngũ uẩn. Hàng phàm phu do còn sống trong vọng kiến, vô minh, cho rằng năm uẩn này “là ta, là của ta”, do vậy song song với diễn trình biến dị của chúng, họ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu não, tức tâm bệnh. Trái lại đối với bậc thánh, do không có chấp thủ năm uẩn “là ta, là của ta” nên khi chúng chịu sự chí phối của vô thường biến hoại, thì tâm của các bậc thánh vẫn bất động, không phát sinh tâm bệnh sầu, bi, khổ, ưu não như hàng phàm phu [9]. Chính vì vậy mà ngay từ bài kinh Đức Phật thuyết giáo đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) thì Thế Tôn đã khéo léo chỉ rõ, bệnh là một trong những biểu hiện của khổ, nhưng bệnh khổ này phải đi đôi với cơ cấu “năm thủ uẩn”:  “Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ” [10]. Nếu sự thật không phải như vậy thì dù các bậc thánh giả chứng đắc Hữu Dư Y Niết Bàn (S: Sopadhiśeṣa-nirvāṇa, P: Saupādisesa-nibbāna, C: 有余依涅槃) thì vẫn không thoát được khổ, vì họ còn tồn tại thân xác 5 uẩn vậy và điều này không thể xảy ra.

Tương tự, trong bài kinh Với Mũi Tên thuộc Tương Ưng Thọ của Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật đã chỉ ra sự sai khác, thù thắng của hạng đa văn thánh đệ tử so với hạng vô văn phàm phu trong việc cảm nghiệm các loại cảm thọ, tiêu biểukhổ thọ. Phàm phu do chưa thoát khỏi sự trói buộc cơ cấu tham dục của tự ngã, nên khi một khổ thọ về thân sinh khởi, đi liền với đó là một khổ thọ về tâm, tức sân hận với khổ thọ về thân ấy, từ đó xảy ra thực trạng sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh, hệt như việc trúng 2 mũi tên tại một vị trí bị thương: “Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bị người ta bắn với mũi tên, rồi họ bắn người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy cảm giác cảm thọ cả hai mũi tên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ; thời sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Người ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Cảm xúc bởi khổ thọ ấy, người ấy cảm thấy sân hận (patigha). Do cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ được tồn chỉ tùy miên (anuseti)” [11].  Trái lại với hàng thánh đệ tử sau khi đã quán chiếu như thật và biết rõ rằng bản chất của các cảm thọvô thường, vô ngã, do duyên sanh: “Có ba thọ này, này các Tỳ-kheo, vô thường, hữu vi, do duyên sanh, chịu sự đoạn tận, chiệu sự tiêu vong, chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ” [12]. Cho nên khi một khổ thọ khởi lên nơi thân, thì hàng thánh đệ tử luôn chánh niệm tỉnh giác, không khởi lên sân tâm với khổ thọ về thân đó, dụ như một người chỉ trúng 1 mũi tên duy nhất: “Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bị người ta bắn một mũi tên. Họ không bắn tiếp người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy cảm giác cảm thọ của một mũi tên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ; vị ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác chỉ một cảm thọ, cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Vị ấy không cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy. Do không cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ không có tồn tại” [13].

Điều đó lý giải tại sao, trong những cơn bạo bệnh, đức Phật vẫn chánh niệm tỉnh giác, an nhiên tự tại, không hề than vãn  hay có sự hiện khởi của sân tâm. Cuộc đời Đức Phật trãi qua ít nhất 3 lần bạo bệnh.  Trong 2 lần đầu một lần trong mua an cư tại Vesālī tại làng Beluva“Trong khi Thế Tôn an cư mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt gần như chết tiếp diễn. Ở đây, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, không có than vãn” [14] và lần khác khi Đức Phật ở thành Vương-xá, Ngài lâm trọng bệnh, nhưng sau khi nghe tôn giả Maha Cunda trùng tụng thất giác chi thì bệnh tình của Thế Tôn được đoạn diệt [15]. Lần Bệnh cuối cùng, có thể nói là trầm trọng nhất, Thế Tôn cảm thọ gần như đến chết, đi ngoài ra máu sau khi thọ dụng buổi cơm hiến cúng của người thợ rèn Cunda: “Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh” [16]. Do bữa cơm đó có món Sùkara-maddave (Mộc nhĩ) [17] cực độc, theo như Đức Phật cho hay thì ngoài Đức Phật ra, Ngài không thấy một ai ở cõi trờicõi người, ở ma giới, ở phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được. Do vậy phần còn lại của món mộc nhĩ này đã được Cunda chôn cất theo như sự chỉ dẫn của Đức Phật. Không lâu sau đó Thế Tôn đã nhập diệt, tất nhiên không phải Cunda là thủ phạm khiến Ngài thị tịch, mà đó là hành động đã được điểm chỉ từ trước và Thế Tôn đã từ bỏ thọ hành trước đó tại đền thờ Capala [18].

Như vậy, Đức phật đã phân chia bệnh thành 2 phạm trù căn bản: Thân bệnh và tâm bệnh. Và Ngài nói rằng, chúng ta có thể tiềm dễ bắt gặp người nào đấy tự nhận mình thân không bệnh một năm cho đến 100 năm, nhưng rất khó tìm được trong số những vị ấy, người không bị tâm bệnh dù trong một khoảnh khắc, trừ những vị đã đoạn tận các lậu hoặc [19].  Từ giác độ như những gì vừa nêu, chúng ta có thể thấy rằng bậc thánh (Đức Phật và hàng đa văn thánh đệ tử của Ngài) với chất liệu giác ngộgiải thoát đã hiện chứng, trong tiến trình hiện hữu này, thánh nhân chỉ có thân bệnh mà không còn tâm bệnh như hàng phàm phu. Hay nói cách khác thánh nhân chỉ có “bệnh”, chứ không có “bệnh khổ”. Qua đó chúng ta thấy được sự đối lập trong cách đối diện trước bệnh tật giữa thánh và phàm, một bên là an nhiên tiếp nhận, bên kia thì buông lời nguyền rủa với sự hiện khởi của sân tâm.  Đó là ý nghĩa đích thực mà câu Kinh Pháp Cú 198  muốn truyền đạt:

“Vui thay chúng ta sống
Không bệnh giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau” [20]

 Hơn thế nữa, thông qua cách mà Đức Phật đối diện với những cơn bạo bệnh, chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào và lý do tại sao mà Ngài được xưng tụng là bậc Đại Y Vương, điều này được chính Ngài xác tín trong Kinh Tạp A-hàm như sau: “Này các Tỳ-kheo, các lương y thế gian không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sanh, không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác là vị Đại Y vương, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sanh, lão, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì thế nên Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác được gọi là Đại Y vương.” [21]

Với những kiến giải trên, thiết nghĩ chúng ta sẽ học hỏi được nhiều điều hữu ích trong bối cảnh nạn dịch Covid-19 đang lây lan với tốc độ kinh hoàng như hiện nay. Thay vì hoảng loạn cùng với những hành động thiếu ý thức, kém văn minh trước dịch bệnh, chúng ta phải thật bình tĩnh để nhận ra bản chất của sự hiện diện con người không bao giờ vắng bóng bệnh tật, bệnh dịch. Điều đó đã được lịch sử minh chứng từ cổ chí kim với những thế hệ con người đã nằm xuống vì bệnh tật, cũng như các trận dịch bệnh đã cướp đi nhân mạng của vô số người. Hoảng hốt trước dịch bệnh chẳng khác gì chúng ta tiếp thêm sức mạnh cho virus lây lan. Ngược lại bình tĩnh chấp nhận cũng như có cách ứng xử thông minh, thì con người đã cầm trong tay liều vaccine tinh thần cực mạnh, có thể lướt qua bất kỳ loại virus nào. Đằng khác, lắm lúc chúng ta cũng nên nói lên lời cảm ơn đối với sự tung hoành của virus corona, vì nhờ chúng mà ta nhận diện sâu sắc rằng cuộc sống này rất mong manh, bất toàn. Với vai trò đó nó xứng đáng được xem là một trong ba thiên sứ (Già, bệnh và chết) của Vua Diêm Ma [22] sai bảo để thức tỉnh những con người đang chìm trong lối sống tham dục, ích kỷ, vun bồi cho tự ngã. Hy vọng với biến cố dịch bệnh này, con người sẽ biết cách sửa đổi nhận thức cũng như hành vi của mình, để sống tốt hơn, có đạo đức hơn, biết ban tặng niềm vui và san sẻ nỗi khổ với người khác trong cơn hoạn nạn, dẫu biết trước ngày mai là tận thế!

 

Cước chú:

[1] Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích,  Kinh Tăng Nhất A-Hàm: https://suttacentral.net/ea26.6/vi/tue_sy-thang

[2] Thích Thanh Từ, Khóa Hư Lục Giảng Giải: http://www.thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/khoahuluc/unicode/p4.html

[3] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 633-634.

[4] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trung Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 457.

[5] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 60.

[6] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 608.

[7] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trung Bộ, II,  Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 540-541.

[8] Xem Thích Quảng Độ dịch (2000), Phật Quang Đại Từ Điển, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, tr. 583.

[9] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 633-637/ Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích (2019), Kinh Tạp A-Hàm, Nxb, Hồng Đức, tr. 237-241.

[10] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 783.

[11] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 279.

[12] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 284.

 [13] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 279.

 [14] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 566.

[15] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 504-505.

[16] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trường Bộ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 319.

[17] Có vài ý kiến  tranh luận cho rằng món  Sùkara-maddave là một loại thịt heo mềm.

[18] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trường Bộ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 303.

[19] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 489.

[20] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Pháp Cú, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 91.

[21] Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích (2019), Kinh Tạp A-Hàm, Nxb, Hồng Đức, tr. 682.

[22] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 170-171.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1336)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1140)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant