Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ Và Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại

26 Tháng Ba 202007:44(Xem: 5498)
Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ Và Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại

Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ
Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại
 


Thích Giác Toàn

Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ Và Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại


Kinh Trung bộ, số 140, ghi lời Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự Khổ và sự Diệt khổ”. Trong kinh Chuyển pháp luân, khi giảng cho năm vị Tỳ-kheo nhóm Kiều-trần-như, Đức Phật giảng về Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo), tức là khổ, nguyên nhân của khổ, kết quả của sự diệt khổcon đường đưa đến kết quả ấy. Khi đã đạt Đại ngộ, Đức Phật đã không nhập Vô dư Niết-bàn, Ngài quyết định ở lại thế gian, truyền bá giáo lý cứu khổ cho mọi người. Đấy là sự biểu hiện của Đại từ bi.

Từ bithái độ, hành động của một người đối với người khác. Vậy từ bi vốn mang tính xã hội, do đó sự hội nhập của Phật giáo để cứu khổ là lẽ đương nhiên. Nhưng trong thực tế, tùy theo khu vực, quốc gia, tùy theo thời đạixã hội thay đổi, có nét chung, có nét riêng, cho nên sự hội nhập của Phật giáo vào xã hội cũng cần thích nghi với hoàn cành của xã hội, của thời đại.

Trong bài này, chúng tôi xin đề cập đến bốn phần chính: I. Khổ và sự Diệt khổ; II. Khổ, những vấn đề cấp bách của thế giới ngày nay; III. Phật giáo tham gia diệt khổ trong thời hiện đại; và IV. Phật giáo Việt Nam có khả năng đóng góp giải quyết những vấn đề toàn cầu trong thời hiện đại.

I.   Khổ và sự Diệt khổ


Như trên đã trích dẫn, giáo lý của Đức Phật chủ yếu nhằm nêu Khổ và sự Diệt khổ, nghĩa là nhằm giải thoát cho chúng sanh khỏi mọi khổ đau.

Do vì vô thường nên khổ được được thể hiện. Có vô số loại khổ nhưng tựu trung gồm tám loại: Khổ vì phải sinh ra đời, khổ vì tuổi già, khổ vì bệnh tật, khổ vì cái chết; khổ vì mong muốn và không đạt được, khổ vì phải xa lìa những gì được ưa thích, khổ vì phải nhận lấy những gì không mong muốn và khổ vì những thứ tạo thành thân và tâm của con người cứ nổi lên, hoành hành. Mặt khác, khổ xảy ra liên tục, chồng chất (Khổ khổ), khổ xảy ra do mọi thứ đều vô thường, đều hủy hoại (Hoại khổ) và Khổ vì thân thểtâm hồn khi tiếp xúc với ngoại cảnh (Hành khổ).

Nguyên nhân của Khổ là Ái. Ái lại thuộc chi phần thứ tám của mười hai nhân duyên. Toàn bộ mười hai nhân duyên là quá trình thể hiện khổ mà chi phần cuối là già chết, sầu bi, khổ, ưu não. Như vậy, Diệt khổdiệt ái, cũng là diệt cả mười hai chi phần của Duyên khởi.

Trong suốt mười hai chi phần duyên khởi (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử), ta không thể diệt các phần trên, ngoại trừ ái (tham ái, ngã chấp) vì chúng là bổn hữu từ lúc một người được sinh ra. Sự diệt ái liên quan đến diệt khổ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại; chỉ có thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp mà thôi. Mặt khác, trong bài giảng về Tứ đế, Đức Phật đã dạy Bát chánh đạo, con đường tám ngành đưa đến sự giải thoát. Trong việc tìm về giải thoát, Đức Phật còn dạy Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (bốn niệm xứ, năm căn, năm lực, bảy chi phần giác ngộ và tám chánh đạo).

Khổ và sự Diệt khổ như đã nêu trên là rút từ căn bản giáo lý của Đức Phật. Điều cần lưu ý là đây chỉ là giáo lý cho sự tu tập của tự thân mỗi người. Chứng ngộtự chứng ngộ, không ai chứng ngộ cho mình. Cho nên việc nhận định thực trạng khổ của số đông chúng sinh phải mang tính xã hội, tính toàn cầu và việc diệt khổ cho số đông phải được áp dụng cụ thể cho từng trường hợp, từng phần, dần dầnliên tục. Đây có thể gọi là hoạt động từ thiện, phát xuất từ lòng từ bi.

2. Khổ, những vấn đề cấp bách của thế giới ngày nay


Xưa nay, khổ của từng cá nhân vẫn mãi là khổ mà Phật học căn bản đã nêu như đã nói trên. Thực trạng khổ trong đời vẫn là thiên tai, nghèo đói, chiến tranh, bệnh tật, bạo lực, hà hiếp…

Lịch sử văn minh của loài người vẫn tiếp diễn. Nhưng mức độ hạnh phúc không tăng lên so với mức độ khổ đau; đây là kết luận của các nhà nghiên cứu, nhiều học giả. Hẳn ai cũng nhận ra, những vấn đề cấp bách đe dọa đến sự tồn tại của loài người đã xuất hiện khá rõ nét trong thời hiện đại, đòi hỏi những giải pháp hiệu quả, cấp bách để cứu hành tinh này và loài người cũng như muôn loài khác đang sinh sống. Những vấn đề này đã được Liên Hiệp Quốc hoặc khá nhiều quốc gia tổ chức hội nghị, hội thảo nêu ra và nêu biện pháp giải quyết từ hơn ba thập kỷ trước. Đến nay, những vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và đang có khả năng trở nên trầm trọng.

Rất nhiều những vấn đề, gồm 20, 18, 16, 10 hoặc 6 vấn đề, thường có nhiều vấn đề trùng nhau được đề cập đến. Chúng tôi xin nêu 10 vấn đề mà Quỹ Liên Hiệp Quốc (United Nations Foundation, UNF) đã kể ra (lấy từ trang web unfoundation):
1. Biến đổi khí hậu
2. Ô nhiễm môi trường
3. Bạo lực xã hội
4. Mất an ninhphúc lợi
5. Thiếu giáo dục
6. Thất nghiệp
7. Tham nhũng
8. Suy dinh dưỡng và nghèo đói
9. Ma túy 10. Khủng bố

Quỹ Liên Hiệp Quốc nêu ra 10 mục tiêu trên để nhằm tài trợ, tổ chức, lập chương trình để làm suy giảm, đưa đến sự chấm dứt nguy cơ cho toàn cầu. Một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào là chiến tranh hạt nhân khởi từ chiến tranh cục bộ như hiện nay. Như vậy, khổ đau của nhân loại càng trầm trọng nếu khôngbiện pháp ngăn chặn. Trước những thảm họa tiềm năng đã nêu trên, Phật giáo có thể làm gì để góp phần giải quyết những khổ đau của loài người

III.  Phật giáo tham gia giải quyết khổ đau

Nhận biết về các vấn đề đã nêu trên, Phật giáo có thể đóng góp việc giải quyết bằng cách thực hiện các đề mục sau đây:

1. Đẩy mạnh công cuộc hoằng pháp, đưa giáo lý căn bản của Đức Phật vào đời: Tam độc tham, sân, si gây khổ, nghiệp báo, luân hồi, thủ trì ngũ giới…

2. Phổ biến, kêu gọi thực hiện nếp sống lành mạnh, hiền thiện, tri túc, tránh xa điều xấu, không dùng chất gây nghiện như rượu, ma túy…

3. Nghiên cứu, học hỏităng cường khả năng tổ chức và thực hiện các công tác từ thiện, công ích.

4. Hợp tác với các tôn giáo bạn và các tổ chức vì hạnh phúc của loài người.

 5. Tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế về các vấn đề của thời đại.

6. Đẩy mạnh các công tác từ thiện xã hội: xây dựng các bệnh viện, trường học, nhà trẻ, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà tình thương, tham gia chương trình cứu đói, giảm nghèo.

7. Hưởng ứng các phong trào hòa bình, bảo vệ Trái đất, chống chiến tranh, vì hòa bình, chống bạo lực gia đình, xã hội, bảo vệ nhân quyền, quyền bình đẳng giới tính…

8. Gia tăng sản xuất, đóng góp tạo phúc lợi cho xã hội, giải quyết nạn thất nghiệp.

9. Chú trọng giáo dục trẻ em.

10. Gần gũi với các doanh nhân, chính khách, các nhà lãnh đạo để có thể góp ý xây dựng về các vần đề nhân sinh, chính trị…

Rất nhiều tổ chức Phật giáo trên thế giới đã và đang tham gia giải quyết các vấn đề cấp bách của thời đại. Ví dụ, các chương trình hành động của Hội Thân hữu vì Hòa bình của Phật giáo tại Hoa Kỳ, Liên hiệp Vương quốc Anh, Úc… Hội Phật tử châu Á vì Hòa bình (ABCP), Mạng lưới Các Phật tử Dấn thân (INEB)… và các hội nghị với các đề tài nhận diện các vấn đề cấp bách của xã hội; Tìm kiếm những thể cách giải quyết các vấn đề ấy; Xây dựng một mạng lưới giữa các Phật tử trên bình diện toàn cầu.

Theo thống kê năm 2010 của wikiwand.com, Phật giáo gồm 535 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Theo trang web buddhaweekly.com thì theo các nghiên cứu mới đây (có lẽ là tập hợp các tín đồ Phật giáo vốn không được thống kê ở nghiều quốc gia, vùng miền) thì số tín đồ Phật giáo có thể lên đến 1,6 tỷ, chiếm 22% dân số thế giới. Vậy khả năng của Phật giáo đóng góp cho việc giải quyết những vấn đề cấp bách toàn cầu hiện nay là rất lớn.

IV. Phật giáo Việt Nam có khả năng đóng góp giải quyết những vấn đề toàn cầu trong thời hiện đại

Từ đầu thế kỷ XX, các phong trào chấn hưng Phật giáo khởi lên từ Trung Quốc, Sri Lanka, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam… Khoảng bốn thập kỷ tiếp theo, tính tích cực của Phật giáo được thể hiện, đồng thời xuất hiện các từ Phật giáo dấn thân (Engaged Buddhism), Phật giáo hội nhập (Integral Buddhism), Phật giáo nhân gian (Humanistic Buddhism), Phật giáo nhập thế (Worldly Buddhism) v.v… Đây chỉ là những từ ngữ mới, nêu lên ý nghĩa nhập thế của Phật giáo từ lúc Đức Phật quyết định ở lại thế gian để truyền đạo giải thoát khỏi khổ đau.

Phật giáo Việt Nam nối tiếp truyền thống vì đời của đạo Phật từ hai mươi thế kỷ nay, khi Phật giáo vừa du nhập đến nước ta. Nhà chùa đã là những trung tâm tôn giáo, giáo dục, y học, văn hóa… Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc suốt những thăng trầm của lịch sử và ngày nay đã lớn mạnh, đủ điều kiện để tham gia vào các hoạt động của thế giới.

Thực vậy, với khoảng 50 triệu tín đồ, 40 ngàn Tăng ni, 17 ngàn tự viện, Phật giáo Việt Nam đã lớn mạnh nhất so với từ trước đến nay. Chư Tăng Ni được đào tạo kỹ càng về kiến thức, đạo đức và kỹ năng thực hiện Phật sự, đủ khả năng để tham dự các diễn đàn quốc tế, được tổ chức trong nước và nước ngoài. Hàng trăm chùa Việt Nam đã được thành lập ở các nước ngoài.

Tuy vậy, các hoạt động trong cộng đồng Phật giáo quốc tế cũng như trong các tổ chức quốc tế vì hạnh phúc của nhân loại chưa được Phật giáo Việt Nam tham gia nhiều. Khả năng đã sẵn có, Phật giáo Việt Nam sẽ đạt những thành quả tốt trong việc góp sức giải quyết những vấn đề cấp bách của toàn cầu trong thời hiện đại.
Tài liệu tham khảo:
- Barbara O’ Brien; Hot-Button Issues and Buddhism; learnreligions.com.
- Subodh Ghildiyal; Buddha’s teachings can resolve global issues; economictimes.indiatimes.com.
- Buddhist social work; buddhanetz.net.
- Buddhist and global nonviolent problem solving; http:// www.nonkilling.org/pdf/b5.pdf.
- Ten global issues; unfondation.org.

Thích Giác Toàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 136)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 153)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 158)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 185)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 232)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 263)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 250)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 352)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 577)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 851)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 466)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 654)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 449)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 971)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 681)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 876)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 546)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 627)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1021)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant