Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ Và Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại

05 Tháng Tư 202007:51(Xem: 5029)
Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ Và Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại

Phật Giáo Thực Hành Giáo Lý Khổ
Diệt Khổ Trong Thời Hiện Đại
 


Thích Giác Toàn

Hết Củi Thì Lửa Tắt

Kinh Trung bộ, số 140, ghi lời Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự Khổ và sự Diệt khổ”. Trong kinh Chuyển pháp luân, khi giảng cho năm vị Tỳ-kheo nhóm Kiều-trần-như, Đức Phật giảng về Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo), tức là khổ, nguyên nhân của khổ, kết quả của sự diệt khổcon đường đưa đến kết quả ấy. Khi đã đạt Đại ngộ, Đức Phật đã không nhập Vô dư Niết-bàn, Ngài quyết định ở lại thế gian, truyền bá giáo lý cứu khổ cho mọi người. Đấy là sự biểu hiện của Đại từ bi.

Từ bithái độ, hành động của một người đối với người khác. Vậy từ bi vốn mang tính xã hội, do đó sự hội nhập của Phật giáo để cứu khổ là lẽ đương nhiên. Nhưng trong thực tế, tùy theo khu vực, quốc gia, tùy theo thời đạixã hội thay đổi, có nét chung, có nét riêng, cho nên sự hội nhập của Phật giáo vào xã hội cũng cần thích nghi với hoàn cành của xã hội, của thời đại.

Trong bài này, chúng tôi xin đề cập đến bốn phần chính: I. Khổ và sự Diệt khổ; II. Khổ, những vấn đề cấp bách của thế giới ngày nay; III. Phật giáo tham gia diệt khổ trong thời hiện đại; và IV. Phật giáo Việt Nam có khả năng đóng góp giải quyết những vấn đề toàn cầu trong thời hiện đại.

I.   Khổ và sự Diệt khổ


Như trên đã trích dẫn, giáo lý của Đức Phật chủ yếu nhằm nêu Khổ và sự Diệt khổ, nghĩa là nhằm giải thoát cho chúng sanh khỏi mọi khổ đau.

Do vì vô thường nên khổ được được thể hiện. Có vô số loại khổ nhưng tựu trung gồm tám loại: Khổ vì phải sinh ra đời, khổ vì tuổi già, khổ vì bệnh tật, khổ vì cái chết; khổ vì mong muốn và không đạt được, khổ vì phải xa lìa những gì được ưa thích, khổ vì phải nhận lấy những gì không mong muốn và khổ vì những thứ tạo thành thân và tâm của con người cứ nổi lên, hoành hành. Mặt khác, khổ xảy ra liên tục, chồng chất (Khổ khổ), khổ xảy ra do mọi thứ đều vô thường, đều hủy hoại (Hoại khổ) và Khổ vì thân thểtâm hồn khi tiếp xúc với ngoại cảnh (Hành khổ).

Nguyên nhân của Khổ là Ái. Ái lại thuộc chi phần thứ tám của mười hai nhân duyên. Toàn bộ mười hai nhân duyên là quá trình thể hiện khổ mà chi phần cuối là già chết, sầu bi, khổ, ưu não. Như vậy, Diệt khổdiệt ái, cũng là diệt cả mười hai chi phần của Duyên khởi.

Trong suốt mười hai chi phần duyên khởi (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử), ta không thể diệt các phần trên, ngoại trừ ái (tham ái, ngã chấp) vì chúng là bổn hữu từ lúc một người được sinh ra. Sự diệt ái liên quan đến diệt khổ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại; chỉ có thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp mà thôi. Mặt khác, trong bài giảng về Tứ đế, Đức Phật đã dạy Bát chánh đạo, con đường tám ngành đưa đến sự giải thoát. Trong việc tìm về giải thoát, Đức Phật còn dạy Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (bốn niệm xứ, năm căn, năm lực, bảy chi phần giác ngộ và tám chánh đạo).

Khổ và sự Diệt khổ như đã nêu trên là rút từ căn bản giáo lý của Đức Phật. Điều cần lưu ý là đây chỉ là giáo lý cho sự tu tập của tự thân mỗi người. Chứng ngộtự chứng ngộ, không ai chứng ngộ cho mình. Cho nên việc nhận định thực trạng khổ của số đông chúng sinh phải mang tính xã hội, tính toàn cầu và việc diệt khổ cho số đông phải được áp dụng cụ thể cho từng trường hợp, từng phần, dần dầnliên tục. Đây có thể gọi là hoạt động từ thiện, phát xuất từ lòng từ bi.

2. Khổ, những vấn đề cấp bách của thế giới ngày nay


Xưa nay, khổ của từng cá nhân vẫn mãi là khổ mà Phật học căn bản đã nêu như đã nói trên. Thực trạng khổ trong đời vẫn là thiên tai, nghèo đói, chiến tranh, bệnh tật, bạo lực, hà hiếp…

Lịch sử văn minh của loài người vẫn tiếp diễn. Nhưng mức độ hạnh phúc không tăng lên so với mức độ khổ đau; đây là kết luận của các nhà nghiên cứu, nhiều học giả. Hẳn ai cũng nhận ra, những vấn đề cấp bách đe dọa đến sự tồn tại của loài người đã xuất hiện khá rõ nét trong thời hiện đại, đòi hỏi những giải pháp hiệu quả, cấp bách để cứu hành tinh này và loài người cũng như muôn loài khác đang sinh sống. Những vấn đề này đã được Liên Hiệp Quốc hoặc khá nhiều quốc gia tổ chức hội nghị, hội thảo nêu ra và nêu biện pháp giải quyết từ hơn ba thập kỷ trước. Đến nay, những vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và đang có khả năng trở nên trầm trọng.

Rất nhiều những vấn đề, gồm 20, 18, 16, 10 hoặc 6 vấn đề, thường có nhiều vấn đề trùng nhau được đề cập đến. Chúng tôi xin nêu 10 vấn đề mà Quỹ Liên Hiệp Quốc (United Nations Foundation, UNF) đã kể ra (lấy từ trang web unfoundation):
1. Biến đổi khí hậu
2. Ô nhiễm môi trường
3. Bạo lực xã hội
4. Mất an ninhphúc lợi
5. Thiếu giáo dục
6. Thất nghiệp
7. Tham nhũng
8. Suy dinh dưỡng và nghèo đói
9. Ma túy 10. Khủng bố

Quỹ Liên Hiệp Quốc nêu ra 10 mục tiêu trên để nhằm tài trợ, tổ chức, lập chương trình để làm suy giảm, đưa đến sự chấm dứt nguy cơ cho toàn cầu. Một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào là chiến tranh hạt nhân khởi từ chiến tranh cục bộ như hiện nay. Như vậy, khổ đau của nhân loại càng trầm trọng nếu khôngbiện pháp ngăn chặn. Trước những thảm họa tiềm năng đã nêu trên, Phật giáo có thể làm gì để góp phần giải quyết những khổ đau của loài người

III.  Phật giáo tham gia giải quyết khổ đau

Nhận biết về các vấn đề đã nêu trên, Phật giáo có thể đóng góp việc giải quyết bằng cách thực hiện các đề mục sau đây:

1. Đẩy mạnh công cuộc hoằng pháp, đưa giáo lý căn bản của Đức Phật vào đời: Tam độc tham, sân, si gây khổ, nghiệp báo, luân hồi, thủ trì ngũ giới…

2. Phổ biến, kêu gọi thực hiện nếp sống lành mạnh, hiền thiện, tri túc, tránh xa điều xấu, không dùng chất gây nghiện như rượu, ma túy…

3. Nghiên cứu, học hỏităng cường khả năng tổ chức và thực hiện các công tác từ thiện, công ích.

4. Hợp tác với các tôn giáo bạn và các tổ chức vì hạnh phúc của loài người.

 5. Tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế về các vấn đề của thời đại.

6. Đẩy mạnh các công tác từ thiện xã hội: xây dựng các bệnh viện, trường học, nhà trẻ, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà tình thương, tham gia chương trình cứu đói, giảm nghèo.

7. Hưởng ứng các phong trào hòa bình, bảo vệ Trái đất, chống chiến tranh, vì hòa bình, chống bạo lực gia đình, xã hội, bảo vệ nhân quyền, quyền bình đẳng giới tính…

8. Gia tăng sản xuất, đóng góp tạo phúc lợi cho xã hội, giải quyết nạn thất nghiệp.

9. Chú trọng giáo dục trẻ em.

10. Gần gũi với các doanh nhân, chính khách, các nhà lãnh đạo để có thể góp ý xây dựng về các vần đề nhân sinh, chính trị…

Rất nhiều tổ chức Phật giáo trên thế giới đã và đang tham gia giải quyết các vấn đề cấp bách của thời đại. Ví dụ, các chương trình hành động của Hội Thân hữu vì Hòa bình của Phật giáo tại Hoa Kỳ, Liên hiệp Vương quốc Anh, Úc… Hội Phật tử châu Á vì Hòa bình (ABCP), Mạng lưới Các Phật tử Dấn thân (INEB)… và các hội nghị với các đề tài nhận diện các vấn đề cấp bách của xã hội; Tìm kiếm những thể cách giải quyết các vấn đề ấy; Xây dựng một mạng lưới giữa các Phật tử trên bình diện toàn cầu.

Theo thống kê năm 2010 của wikiwand.com, Phật giáo gồm 535 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Theo trang web buddhaweekly.com thì theo các nghiên cứu mới đây (có lẽ là tập hợp các tín đồ Phật giáo vốn không được thống kê ở nghiều quốc gia, vùng miền) thì số tín đồ Phật giáo có thể lên đến 1,6 tỷ, chiếm 22% dân số thế giới. Vậy khả năng của Phật giáo đóng góp cho việc giải quyết những vấn đề cấp bách toàn cầu hiện nay là rất lớn.

IV. Phật giáo Việt Nam có khả năng đóng góp giải quyết những vấn đề toàn cầu trong thời hiện đại

Từ đầu thế kỷ XX, các phong trào chấn hưng Phật giáo khởi lên từ Trung Quốc, Sri Lanka, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam… Khoảng bốn thập kỷ tiếp theo, tính tích cực của Phật giáo được thể hiện, đồng thời xuất hiện các từ Phật giáo dấn thân (Engaged Buddhism), Phật giáo hội nhập (Integral Buddhism), Phật giáo nhân gian (Humanistic Buddhism), Phật giáo nhập thế (Worldly Buddhism) v.v… Đây chỉ là những từ ngữ mới, nêu lên ý nghĩa nhập thế của Phật giáo từ lúc Đức Phật quyết định ở lại thế gian để truyền đạo giải thoát khỏi khổ đau.

Phật giáo Việt Nam nối tiếp truyền thống vì đời của đạo Phật từ hai mươi thế kỷ nay, khi Phật giáo vừa du nhập đến nước ta. Nhà chùa đã là những trung tâm tôn giáo, giáo dục, y học, văn hóa… Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc suốt những thăng trầm của lịch sử và ngày nay đã lớn mạnh, đủ điều kiện để tham gia vào các hoạt động của thế giới.

Thực vậy, với khoảng 50 triệu tín đồ, 40 ngàn Tăng ni, 17 ngàn tự viện, Phật giáo Việt Nam đã lớn mạnh nhất so với từ trước đến nay. Chư Tăng Ni được đào tạo kỹ càng về kiến thức, đạo đức và kỹ năng thực hiện Phật sự, đủ khả năng để tham dự các diễn đàn quốc tế, được tổ chức trong nước và nước ngoài. Hàng trăm chùa Việt Nam đã được thành lập ở các nước ngoài.

Tuy vậy, các hoạt động trong cộng đồng Phật giáo quốc tế cũng như trong các tổ chức quốc tế vì hạnh phúc của nhân loại chưa được Phật giáo Việt Nam tham gia nhiều. Khả năng đã sẵn có, Phật giáo Việt Nam sẽ đạt những thành quả tốt trong việc góp sức giải quyết những vấn đề cấp bách của toàn cầu trong thời hiện đại.
Tài liệu tham khảo:
- Barbara O’ Brien; Hot-Button Issues and Buddhism; learnreligions.com.
- Subodh Ghildiyal; Buddha’s teachings can resolve global issues; economictimes.indiatimes.com.
- Buddhist social work; buddhanetz.net.
- Buddhist and global nonviolent problem solving; http:// www.nonkilling.org/pdf/b5.pdf.
- Ten global issues; unfondation.org.

Thích Giác Toàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 992)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1168)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1143)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant