Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Có Điều Tốt Không?

16 Tháng Tư 202019:32(Xem: 4562)
Thực Có Điều Tốt Không?

Thực Có Điều Tốt Không?

Nguyễn Thế Đăng

hoan hi



1. Tốt và xấu trong đời thường

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn dựa trên một cơ sở đạo đức nào đó. “Anh này làm biếng, anh kia siêng năng”. “Anh kia hay nóng giận, anh này điềm tĩnh”. “Anh này trung thành, anh kia bội bạc”.

Làm biếng và siêng năng, nóng giận và điềm tĩnh, trung thành và bội bạc, chỉ là những sự kiện, nhưng những sự kiện được đánh giá theo tốt và xấu, thiện và ác, nghĩa là theo đạo đức.

Cái tốt có thật có hay không? Nếu có, nó phát xuất từ đâu? Trả lời những câu hỏi này mới có thể tự mình làm điều tốt và không làm điều xấu, rồi sau đó khuyên người khác làm điều tốt, không làm điều xấu.

Thiện ác, tốt xấu đã được bàn luận từ buổi bình minh của nhân loại như Platon (“cái Thiện tối cao, Hữu thể tối cao”), Aristotle (“đức hạnh đưa đến hạnh phúc”), cho đến Kant (“mệnh lệnh tuyệt đối”). Ở Trung Hoa, từ xưa, nếu có Mạnh Tử với “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, thì cũng có Tuân Tử với “nhân chi sơ tánh bổn ác”. Và đến thế kỷ XX thì đạo đức học cùng với tôn giáo bị phai mờTây phương, nhường chỗ cho các triết học phân tích về thực tiễn, xã hội, khoa học, ngôn ngữ…

Nhưng ở thời đại nào, đạo đức vẫn là một phần không thể thiếu của con người. Chẳng hạn xã hội hiện đại tôn vinh những nhà khoa học, những nhà văn, những người thành công rất giàu có… không những chỉ do tài năng của họ, mà còn là vì lối sống đạo đức của họ.

Ở đây chúng ta chỉ nói về cái tốt, cái xấu theo cảm nghiệm và cảm nhận bình thường của chúng ta.

Tốt xấu, thiện ác đến từ gia đình, học đường và xã hội. Từ nhỏ chúng ta đã được cha mẹ dạy: “Ăn cơm đổ bừa bãi là xấu, gọn gàng là tốt”. “Hiếp đáp em mình là xấu, dơ là xấu, biếng học là xấu, không biết vâng lời cha mẹ là xấu. Và ngược lại là tốt”.

Vào trung học, tốt xấu còn có nghĩa giá trị. Học giỏi là tốt, thông minh là tốt, có kỷ luật là tốt, có mục đích cho việc học là tốt… Ngược lại là xấu. Ở thời thiếu niên này, tốt xấu còn mang thêm nghĩa giá trị. Cái tốt thì có giá trị, cái xấu không có giá trị. Đến đây những tính tốt - còn gọi là đức tính - được thu nhập và bồi dưỡng, tạo thành nhân cách.

Ra xã hội, quan niệm tốt xấu còn được mở rộng thêm và tinh tế thêm. Tuân thủ pháp luật là tốt, công bình là tốt, bình đẳng là tốt, thương yêu là tốt, có lý tưởng là tốt và ngược lại, không tuân thủ pháp luật là xấu, bất công là xấu, không bình đẳng là xấu, thù ghét là xấu, sống không lý tưởng là xấu. Cũng là tốt và xấu, nhưng với sự trưởng thành của thân thểtâm thức, tốt và xấu càng tinh tế.

Tóm lại, tốt và xấu là những quan niệm chúng ta học tập được từ gia đình, trường học, và xã hội. Ngay cả đời sống xã hội cũng được xây dựng trên nền tảng tốt xấu, hay nền tảng đạo đức. Hệ thống pháp luật là để trừng phạtngăn ngừa cái xấu. Trong kinh tế, làm đồ giả là xấu, phải dùng đến pháp luật. Làm chứng gian, thấy người bị nạn không cứu, cố tình gây hại cho người khác… là xấu, pháp luật phải can thiệp.

Những khái niệm tốt xấu ấy có phải chỉ là những quy ước xã hội, trường học và gia đình được thu nạp vào tâm trí chúng ta? Nếu chúng chỉ là những quy ước do con người đặt nên thì giá trị của chúng cũng chỉ là quy ước, chúng ta có thể tuân thủ “sơ sơ”, miễn sao pháp luật không đụng chạm chúng ta là được.

Rồi đến các tôn giáo. Các tôn giáo lớn đều có những điều răn, những lời khuyên như không giết người, không ngoại tình, không trộm cướp, không nói dối… Nhưng nếu tôi là người không có tôn giáo thì những lời khuyên, những cấm đoán ấy có phải chỉ là những quy ước hay không?

Những điều tốt có thực sự hiện hữu hay chỉ là những quy ước được đặt ra tùy hoàn cảnh, tùy thời đại, tùy người cầm quyền?

Chúng ta thấy, nơi người bình thường chúng ta, vẫn luôn luôn ngầm ẩn một ý niệm nào đó về cái tốt. Bằng cớ là khi làm điều gì xấu không ai biết, chúng ta vẫn cảm thấy ăn năn, hối hận. Nơi bản thân chúng ta luôn luôn có một sự cân nhắc, chọn lựa tốt xấu theo đạo đức. Tốt xấu, trí thông minh đạo đức, nếu có thể nói như vậy, luôn luôn có sẵn nơi ta.

Hướng đến cái tốt y như là một bản năng có sẵn nơi ta mà giáo dụctôn giáo chỉ làm mạnh thêm. Có thể định nghĩa con người, dù là con người thấp kém nhất, là một sinh vật biết phân biệt thiện ác. Và chúng ta thấy ai cũng mong muốn mình trở nên con người tốt chứ không phải con người xấu.

Văn chương, phim ảnh… dù có những đoạn nói về tội lỗi, xấu xa nhưng bao giờ cũng hướng con người đến cái tốt, bao giờ cuối cùng cái thiện chứ không phải cái ác thắng. Chẳng có nhà văn nào, đạo diễn nào tạo ra một tác phẩm với mục đích làm cho con người xấu hơn.

Nhìn rộng ra, lịch sử nhân loại, dầu rất nhiều trắc trở, ngưng trệ, có khi thụt lùi nhưng luôn luôn hướng đến cái tốt hơn, thiện hơn. Chẳng hạn ngày xưa có chiến tranh là do ý muốn có khi rất cảm tính, chủ quan của một ông vua nào đó. Ngày nay có ngoại giao thương thuyết, có Liên Hiệp Quốc, mặc dầu chẳng có sức mạnh quân sự, đứng ra hòa giải, tìm biện pháp. Luật pháp là để xác định cái gì tốt cái gì xấu, và có những cơ chế để khuyến khích cái tốt và trừng phạt cái xấu.

2. Cái tốt là một nhu cầu tâm linh của con người

Einstein là một nhà vật lý vĩ đại, nhưng ông không hoàn toàn dựa vào khoa học, mà chú ý nhiều đến con người, mà con người là tính đạo đức:

Cho nên tôi tin rằng những con người như Khổng Tử, Đức Phật, Chúa Jesus và Gandhi đã góp phần mài sắc tinh thần đạo đức của con người hơn là khoa học từng làm được. Con người có thể ý thức về sự tác hại của hút thuốc và rồi vẫn là kẻ hút thuốc dây chuyền. Cũng như thế đối với tất cả những động lực xấu xa và đầu độc cho đời sống.

Tôi không cần nhấn mạnh rằng tôi quý trọngđánh giá cao thế nào mọi nỗ lực hướng đến chân lýhiểu biết. Nhưng tôi không tin rằng sự thâm thủng những giá trị đạo đứcluân lý có thể được bù đắp bằng những nỗ lực thuần túy trí thức”. (Einstein, Nguyễn Xuân Xanh, 2011 trang 306)

Và làm một con người bình thường, có lẽ không ai không cảm nhận được tính đạo đức như Kant đã nói trong phần kết luận cuốn Phê bình Lý tính Thực hành:

“Hai điều tràn ngập tâm trí tôi với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới lạ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi”.

Những người bỏ nhà, sống một cuộc đời thiện lành, trong đó có những người trở thành những con người tốt đẹp đến độ chúng ta gọi là những vị thánh, đó là những người đam mê cái tốt một cách kỳ lạ, thậm chí có vẻ điên cuồng. Cái thiện là một niềm đam mê, một nỗi ám ảnh, là động lực đẩy họ đi trên con đường tự hoàn thiện chính mình. Cuộc đời của họ cho chúng ta biết có cái thiện, và họ là những người sống được cái thiện ấy, dù có nhiều danh từ khác nhau để gọi cái thiện ấy.

Trong mười năm nữa, trí thông minh nhân tạo (AI) với các thuật toán của chúng sẽ vượt hẳn trí thông minh con người. Thậm chí chúng có thể chọn lựa tốt xấu về đạo đức chính xác hơn con người, bởi vì chúng có thể phân tích rất nhiều thông số để chọn cái nào là tốt nhất nên làm mà không bị cuốn theo cảm tính và phiền não như con người. Nhưng vinh quang chiến thắng vẫn thuộc về con người, vì trí thông minh nhân tạo có thể chọn lựa tốt xấu rất chính xác, nhưng chúng không chiến thắng vì không biết chiến đấu, nhất là tự chiến đấu để chiến thắng chính mình:

Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng.
(Pháp cú, câu 103)


Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo số 342 ngày 01-04-2020
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1336)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1140)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant