Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Có Thể Giúp Bạn Đối Phó Với Sự Sợ Hãi Bởi Đại Dịch Covid-19

13 Tháng Tư 202019:49(Xem: 4546)
Phật Giáo Có Thể Giúp Bạn Đối Phó Với Sự Sợ Hãi Bởi Đại Dịch Covid-19
Phật Giáo Có Thể Giúp Bạn Đối Phó
Với Sự Sợ Hãi Bởi Đại Dịch Covid-19


Thích Vân Phong dịch

hoan hi


Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó.

Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.

Tại các quốc gia châu Á, chư tôn đức Tăng già Phật giáo tụng kinh, niệm Phật, trì chân ngôn mật chú để cung cấp nguồn năng lượng tích cực trong quá trình giải thoát tâm linh. Tại đảo quốc Phật giáo Sri Lanka, các cơ sở tự viện Phật giáo tụng kinh cầu nguyện tiêu tai giải nạn được đưa hình ảnh trên đài phát thanh truyền hình. Ở Ấn Độ, chư tôn đức tăng già Phật giáo tụng kinh tại Bồ đề Đạo tràng, thành phố ở quận Gaya, Bihar, Ấn Độ, kỷ niệm nơi Thái tử Sĩ Đạt Ta thành đạo Vô thượng Bồ đề hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.

Các nhà lãnh đạo Phật giáo cho rằng, giáo lý đạo Phật có thể giúp đối mặt với sự vô thường, sợ hãilo âu bởi sự lây lan của đại dịch Covid-19.

Đây không phải là lần đầu tiên đạo Phật đưa ra giáo lý để cung cấp cứu trợ trong một cuộc khủng hoảng. Là một học giả Phật giáo, tôi đã nghiên cứu những cách mà giáo lý đạo Phật được minh giải để giải quyết các vấn đề xã hội.

 "Phật giáo dấn thân" (Engaged Buddhism -社會參畫佛教)

Vào thập niên 1960, trong cuốn sách “Hoa sen trong biển lửa, Lotus in a Sea of Fire”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đưa ra khái niệm "Đạo Bụt dấn thân" hay “Phật giáo dấn thân” (Engaged Buddhism-社會參畫佛教), tức là áp dụng những tuệ giác của mình đạt được từ những lời của đức Phật và từ thiền quán để làm vơi bớt những nỗi khổ niềm đau trong xã hội, trong môi sinh và trong chính trường.

Trong thập niên 1960 này, Ngài khai sáng Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (School of Youth for Social Services - SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị bom đạn, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh tại Việt Nam.

Ngài là một trong những thành viên sáng lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tâp trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóangôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Đại học Vạn Hạnh đưa ra “lời kêu gọi vì hòa bình”, với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam – Bắc tìm “giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau”. Ngài là vị Sứ giả vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

Sau đó, Ngài đã truyền giới Tiếp hiện cho một nhóm sinh viên, và các bạn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, góp phần hiện đại hóa đạo Phật, lý tưởng Bồ tát đạo, mang ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật đi vào cuộc đời.

Trong những năm gần đây, nhiều Phật tử đã tích cực tham gia vào các vấn đề chính trị và xã hội trên khắp châu Á cũng như các khu vực của thế giới phương Tây.

Triết lý này được thể hiện sâu sắc qua cuộc đời của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ngài đã dành cả đời để cống hiến cho hòa bình bằng những pháp môn thực tiễn của Phật giáo.

Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáoảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009.

Vận dụng giáo lý từ bi trí tuệ của đạo Phật qua 5 điều sau đây, trong thời điểm hiện tại có thể giúp mọi người thoát khỏi sự sợ hãi, lo âucô lập.

1. Thừa nhận nỗi sợ hãi

Trong giáo lý căn bản của đạo Phật có “Bốn sự thật nhiệm mầu” (Tứ Diệu đế):

1. Khổ đế (duḥkha-satya): Chỉ cho trạng thái khổ não bức bách thân tâm. Nhận thức đúng thế gian, không luận là hữu tình hay vô tình của tất cả mọi sự vật giữa thế gian, tất cả đều là khổ; cùng mọi giá trị phán đoán do những hoàn cảnh chung quanh tạo ra trong cuộc sống của con người thuộc về thế tục, thì bản chất của chúng là khổ. Khổ đếChân đế chỉ cho quan hệ sinh tử thật là khổ.  

2. Tập đế (samudaya-satya): có nghĩa là nhóm họp tích chứa. Nhận thức đúng tất cả nghiệp hoặc phiền não, chúng có khả năng nhóm họp quả khổ sinh tử ba cõi. Tập đếchân đế chỉ cho quan hệ sinh khởi cùng căn nguyên của mọi thứ khổ của chúng sanh ở trong thế gian này.  

3. Diệt đế (nirodha-satya): là tịch diệt. Nhận thức đúng về việc đoạn trừ dục ái nguồn gốc của khổ, thì khổ sẽ diệt được, và có thể sẽ nhập vào cảnh giới Niết-bàn. Diệt đếchân đế chỉ cho sự quan hệ diệt tận khổ và tập.  

4. Đạo đế (mārga-satya): Đạo có nghĩa là thông suốt. Nhận thức đúng về đạo diệt khổ, qua bát Chánh đạo (Từ chánh kiến cho đến chánh tuệ). Nếu nương tựa vào chúng mà tu hành, thì sẽ thoát khỏi hai đế khổ-tập, đạt đến cảnh giới Niết-bàn tịch tĩnh. Đạo đếchân đế chỉ cho sự quan hệ đến bát Chánh đạo. Qua Tứ đế khổ và tập biểu thị cho nhân quả mê vọng của thế gian; tức quả của hữu lậu thế giankhổ đế, nhân của hữu lậu thế giantập đế; quả của vô lậu xuất thế giandiệt đế, nhân của vô lậu xuất thế gianđạo đế. Đó là nhân quả Tứ đế giải thoát sinh tử qua kinh điển dành riêng cho các nhà Thinh văn như trong kinh Pháp Hoa (Puṇḍarika) phẩm tựa đã dạy.

Hiểu và thừa nhận “Bốn sự thật nhiệm mầu”. Bản chất thực tế được khẳng định trong bản Thánh ca này, dùng để nhắc nhở mọi người rằng, nỗi sợ hãi và sự vô thường là điều tự nhiên đối với cuộc sống bình thường. Với thực tế của chúng ta là một phần của việc làm cho hòa bình, bất kể điều gì, đang mong đợi sự vô thường, thiếu sự kiểm soát và không thể đoán trước.

Suy nghĩ rằng mọi thứ trở nên khác, từ quan điểm của Phật giáo, không cần thiết thêm đau khổ.

Thay vì phản ứng với nỗi sợ hãi, các vị giáo thọ Phật giáo khuyên với “Thái độ của người tu tập Phật giáo đối mặt với sự đau đớn”.

Vị tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, Thiền sư Ajahn Brahm giải thích rằng: “Sự đau đớn cũng là một hiện tượng – dharma – như tất cả các hiện tượng khác, không nên tìm cách chống lại sự vận hành tự nhiên của nó mà phải thỏa hiệp với nó, cùng chuyển động với nó, và nhờ đó mình sẽ nhận thấyliên hệ với mình nhưng không phải là thuộc của mình và cũng không phải là chính mình”.

1. Thực tập Chánh niệmThiền định

Chánh niệmThiền định là những giáo lý căn bản của đạo Phật. Thực hành chánh niệm nhằm hạn chế các hành vi bốc đồng với nhận thức về cơ thể.

Ví dụ, hầu hết mọi người phản ứng bốc đồng để gãi ngứa. Với việc thực tập chánh niệm, các cá nhân có thể rèn luyện tâm trí của mình để theo dõi sự phát sinh và sự ngứa đã qua đi mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào về thể chất.

Với việc thực tập chánh niệm, người ta có thể trở nên ý thức hơn và Tránh chạm tay lên mặt (mắt, mũi, miệng) và thường rửa tay.

Thiền định so với chánh niệm, là một thực hành dài hơn, hướng nội hơn so với thực hành chánh niệm từng khoảnh khắc. Đối với những người theo đạo Phật, thời gian của một người thường một mình với tâm trí là một phần của khóa tu thiền. Cách ly và kiểm dịch có thể phản ánh các điều kiện cần thiết cho một khóa tu thiền.

Ngài Yongey Mingyur Rinpoche, một thiền sư trẻ của Phật giáo Tây Tạng, khuyên nên theo dõi những cảm giác lo âu, phiền muộn trong cơ thể và xem chúng như những đám mây đến và đi.

Thiền định thường xuyên có thể cho phép một người thừa nhận sự sợ hãi, tức giận và vô thường. Sự thừa nhận như vậy có thể giúp các bạn dễ dàng nhận ra những cảm giác này chỉ đơn giảnchuyển hóa các phản ứng đến một tình huống vô thường.

3. Tu tập hạnh Từ bi

Giáo lý đạo Phật nhấn mạnh đến “Tứ vô lượng tâm”: tâm Từ diệt trừ sự sân hận; tâm Bi diệt trừ hại tâm; tâm Hỷ diệt trừ bất lạc; tâm Xả diệt trừ hận tâm.

Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được sự phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợilợi tha khi đem chúng ta ra ban vui cứu khổ cho chúng sinh cũng đạt được như mình của chư Phật và Bồ tát.

Bốn phạm trù này dùng để đối trị bốn thứ phiền não, tham lam, sân hận, đố kỵ, buồn lo ttrong lúc tu tập thiền định và cũng từ thiền định này tạo điều kiện làm duyên cho bốn tâm thức cao thượng rộng lớn vô lượng phát sinh đối với vô lượng chúng sinh. Các vị giáo thọ Phật giáo tin rằng, bốn phạm trù này có thể thay thế các trạng thái tâm lý lo lắngsợ hãi.

 Khi xung quanh sự cảm xúc nỗi sợ hãi hoặc lo âu sầu khổ quá mạnh mẽ, các vị giáo thọ Phật giáo nói rằng, người ta nên quán chiếu về từ bi tâm, hảo tâm và sự đồng cảm. Mô hình của những suy nghĩ sợ hãituyệt vọng có thể được ngăn chặn bằng cách đưa bản thân trở lại cảm giác chăm sóc người khác.

Lòng trắc ẩn vị tha rất quan trọng ngay cả khi chúng ta duy trì khoảng cách. Thầy Pháp Linh, một vị giáo thọ Làng Mai khuyên rằng, đây có thể là thời gian để tất cả mọi người quan tâm đến các mối quan hệ của họ.

Điều này có thể được thực hiện thông qua các cuộc chia sẻ với những người thân yêu của chúng ta nhưng cũng thông qua thực hành thiền định. Khi các thiền giả hít vào, mà mọi người đều cảm thấy họ nên thừa nhận sự đau khổ, lo âu, và trong khi thở ra, chúc mọi người bình anhạnh phúc.

4. Hiểu biết về kết nối giữa chúng ta

 Giáo lý đạo Phật nhân ra một mối liên kết giữa mọi thứ. Đại dịch Virus Corona là một khoảnh khắc để thấy rõ hơn điều này. Với mỗi cử chỉ hành động ai đó thực hiện để tự chăm sóc bản thân, chẳng hạn như rửa tay, họ cũng đang giúp bảo vệ người khác.

Tư duy nhị nguyên về sự tách biệt giữa bản thân và người khác, bản thânxã hội, bị phá vỡ khi nhìn từ góc độ của sự kết nối.

Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào nhau, và khi chúng ta cảm thấytrách nhiệm với mọi người, chúng ra hiểu khái niệm kết nối là một sự thật khôn ngoan.

5. Sử  dụng thời gian này để phản ánh

Thời điểm vô thường, các vị giáo thọ Phật giáo lập luận, có thể là cơ hội tất để hiện thực hóa những giáo lý đạo Phật, lan tỏa ánh sáng từ bi trí tuệ vào cuộc đời.

Các cá nhân có thể biến sự thất vọng với thời điểm hiện tại thành động lực để thay đổi cuộc sống và quan điểm của một người về thế giới. Nếu một người tự chuyển biến những chướng ngại như một phần của con đường tâm linh, người ta có thể sử dụng những thời điểm khó khăn để thực hiện một cam kết sống một cuộc sống tinh thần hơn.

Độc cư tại gia tịnh tu là một cơ hội để suy ngẫm, và chỉ là tận hưởng những điều nhỏ nhặt.

Clips:

Chư tôn đức tăng già Phật giáo tụng kinh tại Bồ đề Đạo tràng, Ấn Độ cầu tiêu tai giải nạn, chúc phúc cát tường cho những bệnh nhân nhiễm Covi-19

https://www.youtube.com/watch?v=qd-6da4d0Zk&feature=emb_logo

Thầy Pháp Linh chia sẻ Phật pháp trong hai tuần tự cách ly tại Làng Mai, Pháp quốc

https://www.youtube.com/watch?v=v4rUnZYkxhI&feature=emb_logo


Thích Vân Phong dịch
(Nguồn: The Conversation)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 122)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 150)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 141)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 234)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 250)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 282)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 266)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 279)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 358)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 324)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 316)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 302)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 336)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 329)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 263)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 215)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 253)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 267)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 358)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 433)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 424)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 408)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 418)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 689)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 650)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 930)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 522)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 757)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 580)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 578)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 463)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 580)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 550)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 732)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 521)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 903)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 648)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 646)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1074)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 746)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 638)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 949)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 604)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 725)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 702)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 680)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 702)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 696)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant