Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Kinh

02 Tháng Bảy 202019:34(Xem: 4595)
Tâm Kinh

TÂM KINH

Tiểu Lục Thần Phong

Đời Như Tấm Gương Soi







 Âm thanh tụng Tâm Kinh thì thầm lan toả trong trời đất, làn sóng âm nhè nhẹ xao xuyến xuyên thấm vào lòng người và cả phi nhân. Dòng âm thanh Tâm Kinh  như suối nguồn róc rách, laị cuồn cuộn như nước sông chảy ra đại dương. Người tụng Tâm Kinh như nhập vào một cảnh giới khác, trong phút giây thoát ra khỏi những vướng bận dính mắc của cuộc đời này. Người tụng Tâm Kinh hoà cả thân tâm vào thanh âm, vào ngôn từ kể từ khi khởi tụng. Nếu người ca sĩ nhạc Rock&Roll say sưa hoà mình vào âm thanh, ca từ một cách hoàn toàn, trong lúc diễn hất tóc, nhảy nhót, hú hét hết mình như thế nào thì người tụng Tâm Kinh cũng toàn tâm, toàn ý, toàn thân thăng hoa trong Tâm Kinh như thế ấy!

 Rồi một ngày kia, mình chợt giật mình! Mình tụng Tâm Kinh nhuyễn như cháo chảy, như nước cuốn hoa trôi, như chim hót… Mình say sưa trong ngôn từ văn tự nhưng liệu mình có hiểu thật không? Có thẩm thấu gì chăng?

 Quán tự taị, quán cái gì mà tự taị? taị sao quán mới tự tại? ai quán?  Chao ơi! bao nhiêu câu hỏi nảy ra. Quán là xem xét một cách tường tận kỹ lưỡng, quán có sâu có cạn, có nhanh có chậm, đời có bao nhiêu pháp thì quán có bấy nhiêu đề mục để quán. Quán sơ khởi thì xem hơi thở vaò ra thế nào, mình thở biết mình đang thở, đang sống với phút giây hiện tại bây giờ và ở đây, không hối tiếc quá khứ, không tầm cầu tương lai, không dính mắc hiện taị.

 Quán thân bất tịnh để biết sự thật thân này, nó là cái tuí da thôi thối, hàng ngày tiết ra bao nhiêu thứ dơ bẩn: mắt có cứt ghèn, tai có ráy tai, cứt mũi, cức răng, đờm, nhớt, hàng triệu lỗ mồ hôi tiết chất hôi, hạ thân tiết ra phẩn, niếu…Thật sự bất tịnh, chẳng sạch chút nào. Bề ngoài dù có xinh đẹp thế nào đi nữa nhưng sự thật vẫn cứ là đãy da thối mà thôi, quán thân bất tịnh để mà buông bỏ, đừng chấp thân này. Quán thọ là khổ, càng thọ nhận càng khổ, cho dù có thứ thọ vui nhưng rốt cuộc vẫn đi đến khổ, càng thọ càng dính mắc. Cuộc đời này sắc dục , vật chất có sức hấp dẫn, quyến rũ,, dụ khị rất mãnh liệt. Càng thọ càng thèm khát, càng không thể thoã mãn nên vì thế mà khổ. Ngay cả thọ nhận một lời chê cũng đủ khổ rồi. Khi thọ nhận một lời khen có vui đấy nhưng thực chất nó cũng chỉ là làn sóng động của âm thanh, truyền từ lưỡi người nói đến tai người nhận, nó không thật, khi thọ nhận lời khen mà không được đối đãi tương ưng hoặc đối đãi ngược với lời khen thì khổ ngay chỗ đó. Bởi vậy quán thọ là khổ để mà xả thọ, phi thọ , mức độ cạn sâu, cao thấp tuỳ vào năng lựccông phu của mỗi người. Quán tâm vô thường, tâm vốn vô hình vô tướng  nhưng có sức tác động động ghê gớm, thăng hay đọa cũng từ một tâm, tạo thành hay hủy hoại cũng nó. Cái tâm sáng nắng chiều mưa, nay yêu mai ghét, phần lớn chúng ta đều sống với cái tâm mê mờ, vọng tưởng và nó làm cho chúng ta quay cuồng điên đảo  mà không hề hay biết. Tâm vọng biến hoá hư ảo khôn lường, nó như tấm gương phủ đầy bụi đất, khi nào lau sạch thì mới có thể hiện bóng trăng sao, sơn hà, vũ trụ. Ấy là lúc vọng đã thành chơn, tâm bấy giờ tròn đầy và diệu dụng như tấm gương sáng. Quán pháp vô ngã, các pháp vốn không có cái ngã độc lập, tất cả là do duyên sanh, mà duyên sanh thì cũng duyên mà diệt, vì duyên mà tụ hợp nhưng rồi cũng vì duyên mà chia ly, tụ tán không hạn kỳ. Khoa học ngày nay chứng minh rõ ràng:” năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi. Vật chất cũng thế, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác... ngay cả thời gian cũng không thật, không gian cũng không thật…”  Không có một cái gì tồn tại độc lập, một cái ngã độc lập cả. Ví như một cái nhà, nó được cấu thành từ vô số những nguyên tố của cát, đất, gỗ, đá, sắt, kíếng, nước, lửa, sức người…khi đủ duyên thì nó đủ duyên hợp thành thì ta gọi là cái nhà, khi duyên hết mỗi thứ laị tan hoại thành những nguyên tố ban đầu thì giờ chẳng có cái gì để gọi là  cái nhà cả.

 Quán sâu hơn, công phu hơn, ở mức độ uyên thâm hơn thì quán tướng như vậy, quán thể như vậy, tánh như vậy, lực như vậy, dụng như vậy… cho đến bổn mạt cứu cánh như vậy. Một khi đã quán từ thấp đến cao, từ thô đến tế, từ cạn đến sâu thì mức độ tự tại cũng sẽ tương ưng theo. Ai cũng có thể quán, tùy theo căn cơtrình độ của mình, quán mọi lúc mọi nơi, quán lúc ăn, lúc chơi, lúc làm, lúc nghỉ, lúc lái xe… chứ không phải đợi đến lúc ngồi xếp bằng trước tôn tượng Thế Tôn mới quán. Quán ở trong tâm, thật quán thì hoàn cảnh bên ngoài không còn là vấn đề quan trọng, quán cho đến khi mà ngủ mà cũng quán thì lúc ấy siêu việt, thượng thừa.

 Bồ Tát nhờ quán mà tự tại, Bồ Tát là ai? , ai là Bồ Tát? Bồ Tát là bậc hữu tình đã giác ngộ, mà cũng là bậc giác ngộ cho các hữu tình chúng sanh. Bồ Tát là người làm được việc mà người khác không làm được. Bồ Tát là nguời làm việc vì lợi ích cho chúng sanh mà không có tâm tư lợi hay mong cầu đáp trả… Ai cũng có thể làm Bồ Tát, ai cũng có thể tự tại như Bồ Tát, muốn vậy thì phải quán, tất nhiên từ sơ phát tâm cho đến khi thật sự tự tại như Bồ Tát thì là cả một quá trình dài lâu, gian nan.

 Bồ Tát tự tạiBồ Tát quán, Bồ Tát hành thâm cái trí huệ bát nhã. Trí huệ bát nhã sáng suốt viên mãn như mặt nhật soi chiếu tường tận mọi bản chất thật tướng của sự việc và sự vật. Trí huệ bát nhã như gươm bén cắt đứt mọi ràng buộc phiền não hệ lụy. Bồ Tát quán chiếu trí huệ bát nhã thấy rõ thật tướng của vạn pháp thế gian hay xuất thế gian. Thấy rõ bản chất của năm uẩn này vốn là không, không phải không có mà là không thật có. Nó không phải là năm uẩn thật có và độc lập. Nó là do duyên hợp mà sanh ra. Sắc thân do vô số tế bào hợp laị. Nó từ tinh cha huyết mẹ, vay mượn cơm gạo từ đất nước, hơi thở là gió, nhiệt độ thân thể là lửa. Nó là sự kết hợp của bốn yếu tố: đất - nước – gió - lửa mà thành. Nó không phải là một thực thể độc lập, cũng như vạn vật vậy, đủ duyên thì tụ thành hết duyên thì tan hoại đi, một khi gió không ra vô nữa thì các tế bào tan hoại và sắc thân laị trả về với đất - nước- gió - lửa. Sắc thân không thật có thì thọ, tưởng, hành, thức có thật sao? thọ, tưởng, hành, thức nó gá tạm vào sắc thân một thời gian. Sắc thân và tâm của một kiếp sống là vừa thọ nghiệp mà cũng vừa tạo nghiệp. sắc thân chỉ là công cụ, tâm ý nó mới là kẻ xúi sắc thân. Một khi sắc thân tan hoại thì thọ, tưởng, hành, thức ở đâu? nghiệp lực nó lôi kéo, những chủng tử thiện – ác trong A laị da thức dẫn dắt thức vào một cảnh giới khác tương ưng với nghiệp thiện ác đã làm và cũng sẽ mang một hình hài sắc thân khác, tất nhiên cũng tương ưng với nghiệp thiện –ác đã làm trong quá khứ.

 Bồ Tát quán trí huệ bát nhã một cách thâm sâu nhất, thấy được ngũ uẩn naỳ là không. Bồ Tát cũng chẳng vướng vào sắc thân vật chất và cũng không dính mắc vào thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thân không thật, thọ, tưởng, hành thức không thật thì khổ ách thật sao? chỗ nào để mà thọ khổ ách? Bồ Tát đã vắng bặt mọi trạng thái tâm lý, đã hoàn toàn tịch tịnh, hoàn toàn tự tại.

 Quán Bồ Tát cũng là biệt hiệu của  Bồ Tát Quán Thế Âm. Một vị Bồ Tát trợ thủ đắc lực của Phật A Di Đà. Ngài nói chú Đaị Bi vì chúng sanh. Ngài quán âm thanh bi, âm thanh khổ của thế gian, tùy loại mà hiện ứng thân để giáo hoá, để hoá độ. Người thế gian có thể hình dung ngài với những hình tướng mà tâm ý mình thích: Thân tướng hai tay, bốn tay, tám tay, ngàn mắt ngàn tay, các cánh tay cầm đủ thứ bát bửu. Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ quán và hành thâm trí huệ bát nhã mà tự tại, nhờ quán chiếu mà thấy ngũ uẩn vốn không thậttự tại. Chúng sanh cũng có thể, ai quán thì người đó tự tại. Bồ Tát, Phật không thể quán giúp cũng như không thể tự tại giúp cho chúng sanh được. Chúng sanh phải tự mình quán để mà vượt qua khổ ách. Con đường, phương cách đã có rồi, cứ thực hành quán sẽ có lúc tự tại. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ ràng:” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” . Mọi người đều có thể thành Phật, thành Bồ Tát, thành thánh hiền… Lý thuyết là thế, phải thực hành chứ không thể nói suông, phải hành miên mật, liên lỉ, phải tinh tấn dài lâu thì sẽ có một ngày đắc tự taị như Bồ Tát.

 Chúng mình mê muội lâu rồi, chìm đắm trong ngũ dục bao đời nay, chấp cái thân này là thật, chấp trước đủ thứ, tạng thức chứa đầy chuyện sắc dục, ăn uống, huởng thụ, mưu cầu này nọ…Giờ bắt đầu sơ phát tâm học Phật, thực hành quán, chỉ mới sơ sơ bước nhỏ ban đầu nên chẳng ăn thua gì, hễ đụng việc là lập tức nổi tham, sân,si liền. Mới quán chút chút ban đầu cũng giống như người tắm bằng nước lã, chỉ rửa được chút ít bụi bặm nên chẳng ăn thua gì. Điều đáng nói là chúng mình may mắn gặp được Phật pháp, biết mến mộ pháp, nghe pháp và hành. Quán hơi thở, quán thân, thọ, tâm, pháp… dẫu sơ khởi ban đầu nhưng ít nhiều cũng lợi lạc thân tâm. Biết sợ ác pháp, biết hạn chế không tạo thêm ác nghiệp…

 Chúng mình kể cũng may mắn biết bao, thế gian này có bảy tỷ người nhưng có bao nhiêu người biết Phật pháp? laị trong số ấy có bao nhiêu người chịu nghe pháp và chịu tin và làm theo? cứ thế mà loại suy dần dần thì thật sự còn laị không nhiều. Bởi vậy mà năm xưa khi Thế Tôn còn tại thế ngài đã nói:” Nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. Được thân người, đầy đủ lục căn, laị biết phật phápthực hành thì quả là “ nan trung chi nan”

 Nhà Phật vẫn nói không có cái gì tự nhiên cả. tất cả đều có duyên do, chúng ta biết Phật pháp và chịu hành trì ấy là nhờ những chủng tử Phật pháp từ nhiều đời trước, nay nhờ cơ duyên thuận lợi mà phát sinh và tăng trưởng. Hàng Phật tử chúng mình, nhất là những người tu học theo truyền thống Bắc Tông. Có lẽ ai cũng thuộc Tâm kinh, mỗi khóa lễ thường bắt đầu vào là Đaị Bi và ra là Bát Nhã. Càng tụng tâm Kinh càng thấy ảo diệu, càng lúc càng thâm nhập (dù chỉ phút giây cao độ hứng khởi khi tụng Tâm Kinh), càng tụng càng thấy khoan khoái lạ thường, không thấy mình tụng, không thấy tâm kinh để tụng, dường như chỉ có làn sóng âm  xao động trong đất trời, xuyên suốt thân tâm, không còn cảm nhận thời gian,không gian ( sát na hoan hỷ lúc tụng Tâm Kinh)

 Hàng Phật tử sơ cơ như chúng mình, dẫu chưa biết tự tại là gì, chứng đắc là chuyện xa vời vợi nhưng những phút giây hoan hỷ tụng Tâm Kinh cũng là những phút giây tạm dừng sanh diệt gữa thế gian này. Những phút giây hoan hỷ thọ lạc với văn tự Tâm kinh, văn tự bát nhã chứ chưa phải thật tướng cũng là phút giây qúy báu và đáng sống ở thế gian này.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 062020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 956)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 763)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1290)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1169)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1152)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1238)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant