Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

"Đi Tu" Là... Đi Đâu?

20 Tháng Bảy 202017:59(Xem: 4897)
"Đi Tu" Là... Đi Đâu?
"Đi Tu" Là... Đi Đâu?

Thích Trung Hữu

khat thuc

Hỏi “đi tu là đi đâu?” nghe có vẻ dư thừa. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi này. Vì thật tế cho thấy rằng có những người sau khi xuất gia rồi không biết mình nên làm gì.

Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi. Trong bài viết nhỏ này, người viết xin ôn lại một vài lời dạy của Đức Phật ngày xưa, như một gợi ý để nhắc nhau tu hành trong thời đại phức tạp này.

Ngày nay một người sau khi cạo tóc xuất gia thường được thầy tổ gửi vào các trường Phật học để học. Cứ như thế học hết trường này đến trường khác. Có người học xong các chương trình Phật học rồi thì theo học các trường bên ngoài. Sau khi học xong, một số người trở thành giảng sư, một số đi dạy ở các trường Phật học, một số người thì tổ chức làm những việc khác như làm từ thiện, tổ chức phóng sinh, và một số thì hầu như… thất nghiệp, không có việc gì làm. Có lẽ vì vậy mà nhiều Tăng Ni đã theo học hết trường này đến lớp khác. Họ rất sợ không còn lớp để học, vì hình như ngoài việc đi học ra họ không còn biết làm gì. Học cho hết thời gian… Những cách học và làm việc trên đây thật ra không có việc nào gọi là tu đúng nghĩa, không phải là cốt lõi của sự tu hành theo lời Phật dạy.

Muốn biết cốt lõi của Phật giáo là gì, ta hãy quay trở lại cội nguồn ban đầu của Phật giáo thì rõ. Bản thân Đức Phật và những đệ tử của Ngài khi đó, đi tu đều vì mục đích được giác ngộgiải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Việc truyền bá Chánh pháp chỉ thực hiện sau khi đã giác ngộ, đã chứng được một trong bốn quả Thanh văn, hay chí ít cũng đã nắm được pháp môn tu và hưởng được phần nào hương vị giải thoát.

Chính vì chủ trương như thế nên khi Đức Phật còn tại thế, người nào sau khi xuất gia cũng tập trung vào việc tu tập để chứng quả và coi đó là bổn phận duy nhất của mình. Và đây là lý do vì sao vào thời Đức Phật, số người chứng quả rất nhiều. Rõ ràng, cốt lõi của việc tu hành trong đạo Phật là để giác ngộgiải thoát, chứ không phải bất cứ cái gì khác. Đọc Kinh tạng Nikaya và A-hàm, chúng ta thấy có rất nhiều bài kinh nói về “mục đích tối cao mà các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến” và đều thống nhất một mục tiêu duy nhất là đoạn trừ sinh tử, như được ghi trong kinh Sela (thuộc Trung bộ kinh): “Rồi Tôn giả Sela với hội chúng sống một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, Tôn giả chứng được mục đích tối cao mà các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự chứng đạt và an trú. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa. Vị này biết như vậy và Tôn giả Sela với hội chúng trở thành các vị A-la-hán”.

Đặc biệt trong Tiểu kinh ví dụ lõi cây (thuộc Trung bộ kinh) Đức Phật đã dạy rất rõ ràng về mục đích của xuất gia, về cốt lõi của tu hành: “Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, bỏ qua dác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi và tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: ‘Thật sự người này không biết lõi cây, không biết dác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua dác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu’”. Trong đó, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng là cành lá, giới đức là vỏ ngoài, thiền định là vỏ trong, tri kiến là dác cây, và tâm giải thoát bất động là lõi cây.

Đức Phật chê trách những ai tu hành vì để đạt được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, giới đức, thiền định, tri kiếntuyên bố rằng đó đều không phải là mục đích chân chính của “người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Và Ngài kết luận rằng: “Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh”. Tâm giải thoát bất động chính là giải thoát khỏi phiền não khổ đau của cuộc đời, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, và đó mới là mục đích tối cao của việc xuất gia.

Đọc lại những lời dạy của Đức Phật, nhìn lại chúng ta ngày nay như thế nào? Chúng ta đã đạt được (hay có ý muốn đạt được) lõi cây chưa? Chỉ e là ngay cả dác cây, vỏ trong, vỏ ngoài cũng không có, mà chỉ có cành lá, tức là chỉ có lợi dưỡng, cung kính, danh vọng mà thôi. Chúng ta đạt được cái điều thấp nhất mà Đức Phật chê trách. Ấy vậy mà không ít người khi có những điều đó lại rất tự hào, rất hãnh diện. Chúng ta không biết, hoặc đã quên đi cốt lõi của việc tu hành. Ngày nay chúng ta không khó bắt gặp những người chỉ mới làm được một số việc như từ thiện, thuyết pháp, dẫn chương trình, đưa tin tức Phật sự, tập hợp được một tín đồ, được danh tiếng, cung kính, cúng dường, được cử làm chức vụ trong Giáo hội… thì liền “hoan hỷ, tự mãn… khen mình, chê người, rằng ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền”. Rõ ràng chúng ta đã bám víu vào cái mà Đức Phật dạy chúng ta phải từ bỏ.

Chúng ta đã bị lạc đường rồi! Cho nên càng đi chúng ta đã xa rời với lý tưởng thật sự của người tu.

Những người lạc quan cho rằng Phật giáo Việt Nam hiện nay đang rất phát triển vì làm được nhiều việc, có nhiều tín đồ theo. Tôi thì không nghĩ như vậy. Ngược lại, tôi cho rằng chính những cái mà ta cho là đang phát triển đó lại là biểu hiện của một sự thiếu hụt bên trong. Điều này có thể hiểu theo hai cách: Hoặc là do thiếu hụt bên trong nên người ta cố gắng làm cho cái bên ngoài phát triển, hoặc là do chỉ tập trung phát triển cái bên ngoài mà bỏ qua cái bên trong. Dù sao thì chúng ta cũng cần phải nhìn lại tình trạng tu tậphoằng pháp của Phật giáo Việt Nam hiện nay và cần chú trọng trở về với mục đíchlý tưởng thật sự của việc tu hành, của đời sống xuất gia.

Khi đọc về việc xuất gia tu hành thời Đức Phật, chúng ta thật sự hâm mộyêu thương cuộc sống ấy biết mấy. Sau khi xuất gia cho một vị nào đó, Đức Phật đã dạy họ phương pháp tu tập. Vị đệ tử ấy vâng lời Đức Phật, đã “lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm” để thực tập pháp ấy cho đến khi giác ngộ. Trong thời đại ngày nay chúng ta cũng có thể làm được việc đó, nếu như chúng ta “đủ can đảm” bỏ bớt đi những “thành công” bên ngoài, đủ dũng khí xả ly tiền tài, vật chất, danh vọng, địa vị. Một vị thầy, sau khi xuất gia cho đệ tử, ngoài việc dạy oai nghi tế hạnh của người xuất gia thì điều quan trọng là phải định hướng, hướng dẫn con đường tu hành, cũng như tạo điều kiện cho đệ tử tu hành để đạt được mục đích chân chính của người tu, tức là giác ngộ, như Đức Phật đã từng làm.

Như đã đề cập ngay từ đầu, chúng ta đi tu không phải để đi tìm việc làm, mà là đi tìm sự giác ngộ. Chúng ta bỏ cả cuộc đời của mình, vào chùa ở không phải chỉ để chuyển từ “bán hủ tiếu mặn sang bán hủ tiếu chay”. Việc làm thì có giới hạn nên sẽ có nhiều người bị thất nghiệp, nhưng tu hành để giải thoát là việc mà ta có thể làm cả cuộc đời. Giáo pháp của Đức Phật là để tu chứ không phải để làm việc. Và cũng chỉ có tu, chứ không phải rao giảng suông, mới làm cho giáo pháp của Đức Phật sống động giữa cuộc đời. “Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống, hãy tu tập thiền định. Chớ có phóng dật. Chớ để hối hận về sau”.

Mong sao những lời dạy tha thiết của Đấng Từ phụ không chỉ là cái đẹp nằm trên những trang kinh…

Thích Trung Hữu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 922)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1243)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 682)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 754)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 746)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 888)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 773)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 931)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 934)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 860)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 870)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 808)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 955)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 890)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 841)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 796)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 894)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 826)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1079)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 857)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 946)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1090)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1101)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 915)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 893)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 751)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1426)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1300)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1263)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1210)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1271)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1405)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1283)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1151)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1201)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1253)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1236)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant