Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giá Trị Phổ Quát Của Thiền Và Thuyết Nghiệp Của Đạo Phật

13 Tháng Tám 202015:52(Xem: 4748)
Giá Trị Phổ Quát Của Thiền Và Thuyết Nghiệp Của Đạo Phật
Giá Trị Phổ Quát Của Thiền Và Thuyết Nghiệp Của Đạo Phật

Võ Văn Thành
Lê Thị Thanh Tâm[1]

Khoa Học, Nghệ Thuật Và Tính Tâm Linh
  

Ảnh hưởng của Phật giáo ở Châu Á nói riêng, toàn thế giới nói chung là đậm nét và sâu sắc. Trong bài viết này, chúng tôi dành những trang viết cho hai vấn đềchúng tôi quan tâm, cụ thể là: giá trị phổ quát của thiền và thuyết nghiệp của đạo Phật. Học giả kiêm thiền sư người Mỹ, Alan Wilson Watt (1957) đã nhận định: “Thiền là một trong những món quà quý báu nhất mà châu Á đã tặng cho thế giới” (tr.3). Thêm vào đó, giá trị thuyết nghiệp của đạo Phật, được các nhà khoa học danh tiếng bàn đến gần đây, một học thuyết đầy tính nhân bản đối với loài người nói riêng và chúng sinh nói chung.

Khi nhắc đến giá trị (value) là chúng ta nhắc đến cái vốn có của một vật đáng giá và trước hết là theo nghĩa giá trị trao đổi về mặt vật chất trong tương quan so sánh với các vật khác dưới cái nhìn chủ quan. Chúng ta có thể tạm hiểu “giá trị” là thứ được “chúng ta gán cho giá trịý nghĩa liên quan đến các hiện tượng khác” (Chris Barker, 2004, tr.206) theo cách hiểu của Chris Barker trong The Sage dictionary of Cultural studies (Từ điển minh triết về nghiên cứu văn hóa). Theo cách hiểu của Trần Ngọc Thêm (2015) thì giá trị có thể quy về 3 nhóm chính: giá trị chủ yếu thuộc về bản thân sự vật, giá trị chủ yếu thuộc về chủ thể định giá và giá trị chủ yếu nằm trong các mối quan hệ (tr.13). Ở đây, chúng tôi không có điều kiện để bàn sâu đến lý thuyết về giá trị mà chỉ muốn đề cập đến cái cụ thể nhất là: giá trị phổ quát của thiền Phật giáogiá trị của thuyết nghiệp. Hai giá trị này của đạo Phật đã, đang và sẽ còn hữu ích ở xã hội của châu Á nói riêng và thế giới nói chung.

1. Giá trị của Thiền Phật giáo đối nhân loại

Đạo Phật, tuy có nguồn gốc ở Ấn Độ nhưng trong quá trình phát triển, nó gần như đã biến mất khỏi Ấn Độ, nhưng lại là một tôn giáo lớn của thế giới trên địa bàn rộng khắp châu Á: từ Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, đến Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka…, và hiện nay là một số nước phương Tây có thể kể đến là Pháp, Đức, Hoa Kỳ… Có thể nói, đạo Phật có cả một hệ giá trị đã thấm sâu vào bất cứ dân tộc nào, nơi nó hiện hữu. Những giá trị phổ biến và độc đáo của Phật giáo có thể kể đến như lòng từ, lòng bi, lòng hoan hỷ, năm giới, mười thiện, thiền định v.v… Trong phần này, chúng tôi đề cập đến giá trị của thiền Phật giáo dưới khía cạnh là tác động của nó đối với cá nhânxã hội hay nói cách khác, đó là tính nhân bản của thiền Phật giáo và hơn thế nữa, thiền còn là một phương thức để giữ gìn sức khỏe cho con người hiện đại.

Trước hết, chúng ta cần nắm bắt rằng, thiền (禪) không phải là sản phẩm riêng có của Phật giáo mà nó đã tồn tại từ rất lâu trước khi Phật giáo xuất hiệnẤn Độ. Thiền có thể là sáng tạo của những nhà minh triết Ấn Độ từ rất xa xưa, có trước cả những thành phố cổ đại Mohenjo-Daro và Harappa được các nhà khảo cổ Anh và Ấn Độ khai quật được ở thung lũng sông Indus và niên đại được đánh giá vào khoảng 4000-5000 năm trước TL. Trong các cổ vật đào bới được, có tượng người ngồi ở tư thế kiết già hay còn gọi là tư thế hoa sen (lotus position), vốn là tư thế đặc trưng của thiền. Trong Ấn giáo, Thần Shiva vốn được tôn thờ như là vị Thần của thiền định và tượng người ngồi thiền ở thế hoa sen nở ở hai thành cổ Mohenjo-Daro và Harappa được nhận định như là tượng Thần Siva (Minh Chi, 2005b, tr.181). Tính xa xưa của thiền ít nhất cũng minh chứng cho chúng ta thấy được tác dụnghiệu quảchúng ta có thể gọi là giá trị (value) của thiền như là một nếp sống và một biện pháp tu tập thân tâm. Nếu thiền không có tác dụnghiệu quả lớn đối với cuộc sống và con người thì thiền ắt hẳn là đã bị con người quên lãng, vứt bỏ và biến mất từ lâu. Thế nhưng, thiền vẫn hiện hữu trong xã hội hiện đại và ngày càng phổ biến rộng khắp, không chỉ ở các nước châu Á mà có ở các nước phương Tây với nhiều trung tâm dạy thiền mọc lên khắp nơi. Do vậy, có thể khẳng định rằng, thiền Phật giáogiá trị và sức sống trường tồn của nó trong mọi thời đại.

Thế giới ngày nay - một thế giới với công nghệ thông tin liên lạc phát triển như vũ bão - con người có thể sử dụng chúng để làm việc, thông tin liên lạc một cách rất hiệu quả. Thế nhưng thế giới hiện tại cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc mà con người khó tránh khỏi như chiến tranh, bệnh tật, chết chóc, bất hạnh…, đặc biệt là chiến tranh nếu nó xảy ra thì sự tàn khốc của nó là vô cùng lớn và khó lường trước được và có thể hủy diệt cả hành tinh. Sống trong một thế giới như vậy, tâm của con người bất an, luôn bị căng thẳng (stress) và hậu quả là họ bị lôi kéo sa đà vào những thói hư tật xấu như rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm, sống vô cảm v.v… để quên đi cuộc sống hiện tại đầy đau khổ, bức xúc, bất hạnh hoặc lấp đầy chỗ trống vắng tâm linh[2]. Thiền có tác dụng đem lại cho con người cuộc sống bình tâm, làm việc chính xác, tập trung, cuộc sống thực sự có hạnh phúc, có nhân tình, nhân đạo, có hậu…

Thiền Phật giáotác dụng giúp cho tâm con người hiện đại bình lặng, đem lại cuộc sống an lạc, làm việc tập trung, hiệu quả, bớt lăng xăng, bức xúc, giảm strees (một căn bệnh phổ biến của xã hội hiện đại), làm cho cuộc sống của con ngườiý nghĩa hơn và con người có thể thực hành nó một cách đơn giảnhiệu quả ở mọi lúc, mọi nơi theo cách mà người Nhật làm. Ở người Nhật, làm gì họ cũng “thiền” và thiền giúp cho công việc của họ trở nên có hiệu quả. Đi thiền, đứng thiền, học tập, uống trà, làm việc v.v… mọi việc đều có thể hành thiền mà họ gọi là “thiền tích cực” (positive samadhi, positive meditation). Theo học giả Minh Chi (2005), “thiền tích cực” còn được gọi là “thiền tỉnh giác (tr.184), tức là mọi hoạt độngchúng ta tham gia vào như ăn, uống, ngủ, nghỉ, làm việc, giải trí lành mạnh, đi, đứng, nằm, ngồi v.v… đều phải tỉnh táo, tỉnh thức. Khi chúng ta ăn, chúng ta biết là chúng ta đang ăn để có thể nếm được mùi, vị ngon của thức ăn, tránh tình trạng chúng ta vừa ăn, vừa làm việc, vừa ăn, vừa xem ti vi, vừa ăn vừa cắm cúi nhắn tin điện thoại trên Ipad, điện thoại thông minh hoặc chát với bạn bè. Nếu ăn như thế thì đâu còn cảm nhận được mùi vị ngon của thức ăn!. Khi uống, chúng ta biết là chúng ta đang uống. Tránh tình trạng chúng ta uống rượu, bia đến căng bụng mà vẫn còn uống, không kiểm soát được hành vi, uống cho đến say. Ăn uống như vậy là thứ độc hại chứ không phải nạp vào cho cơ thể những chất tố bổ, lành để giúp cho cơ thể lành mạnh, kéo dài tuổi thọ. Ăn, uống không tỉnh táo như vậy sẽ làm cho cơ thể chúng ta sinh nhiều bệnh tật, bị đột quỵ bất ngờ... Khi chúng ta làm việc tốt, chúng ta biết là chúng ta đang làm việc tốt, cần phát huy. Khi chúng taý định xấu, hại người thì chúng ta biết là chúng ta đang có ý nghĩ không tốt và phải dừng lại, loại bỏ nó ra khỏi đầu. Khi chúng ta lái xe ngoài đường, chúng ta cần tỉnh táochúng ta đang lái xe và phải lái xe với tất cả sự thận trọng, đầy trách nhiệmtình thương và tránh việc mất tập trung trong lúc lái xe theo kiểu vừa lái xe vừa nghe điện thoại, nhắn tin; vừa lái xe vừa nghĩ tới công việc ở văn phòng, gặp bạn bè chiều nay, ăn gì, uống gì, tìm cái gì để giải trí cho tối nay v.v… Nếu mọi người đều tỉnh táo trong việc lái xe ngoài đường, nhận thức được mình đang tham gia vào giao thông mà nếu không tỉnh táo, cẩn thận thì có thể gây tai nạn cho chính bản thân mình và người khác, thì chúng tôi tin rằng tai nạn giao thông sẽ giảm hẳn, tránh được nhiều tai nạn đáng tiếc sẽ xảy ra. Khi chúng ta làm việc, chúng ta phải hết sức tập trung cho công việc, tránh tình trạng vừa làm vừa chơi dẫn đến công việc không xong, việc làm không đạt hiệu quả cao, gây lãng phí thời giantiền của của chính bản thânxã hội. Điều này đang xảy ra khá phổ biếnxã hội chúng ta. Thiền giúp chúng cho tâm chúng ta bớt lăng xăng, hay nghĩ đâu đâu như kiểu cụ Nguyễn Công Trứ ở thế kỷ XIX: “Ở nhà lại muốn ra đi/ Ra đi lại nghĩ ở nhà khi hơn”. Chúng tôi rất khâm phục tinh thầnthái độ làm việc rất tập trung của người Nhật. Nói tóm lại, lối “thiền tích cực” (theo kiểu của người Nhật) mà chúng ta có thể học tập và kiên trì thực hành sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống. Người Nhật là tấm gương rất đáng noi theo về thiền tích cực. Chính trên ý nghĩa này mà một nhà nghiên cứu Phật Việt Nam đã nhận xét: “Sức mạnh của thiền, tức là của đạo PhậtNhật Bản chính là ở chỗ nó thẩm thấu vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hộiđời sống con người. Thiền thể hiện trong cuộc sống và gắn chặt với cuộc sống.” (Minh Chi, 2005a, tr.177). Đó có lẽ cũng chính là lời nhắn nhủ của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ thời Trần, thầy dạy của vua Trần Nhân Tông trong bài Phật tâm ca: “Hành diệc thiền, tọa diệc thiền…” (行 亦 禪 坐 亦 禪). Tức là: Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền... (Nguyễn Huệ Chi (cb), 1988, tr.273).

Thiền còn có tác dụng cực kỳ quan trọng và hữu ích nữa là làm cân bằng tâm lý, thân vật chất của đương sự tham gia hành thiền. Thiền để giữ gìn sức khỏe, làm đẹp v.v… đang phát triển mạnh mẽ ở các nước trên thế giới, ngay cả ở các nước có các tông giáo truyền thống phát triển mạnh ở Tây Âu như Anh, Pháp, Mỹ, Đức v.v… với nhiều trường phái thiền khác nhau như thiền Phật giáo Tây Tạng, thiền Phật giáo Trung Hoa, thiền Phật giáo Nhật Bản, thiền Phật giáo Việt Nam, thiền Phật giáo Thái Lan, thiền Phật giáo Myanmar v.v… Với giá trị của thiền như chúng tôi đã nêu, đã làm cho ngày càng nhiều người ở các nước phương Tây theo đạo Phật và học thiền Phật giáo.

Như vậy, ngày càng có nhiều người trên thế giới nhận thức được lợi íchgiá trị của việc hành thiền. Thiền đã giúp ích cho cuộc sống của nhiều người trở nên tốt đẹp, cân bằng, hài hòa, hạnh phúc, khỏe mạnh để đóng góp tích cực hơn cho mọi chúng sinh trên hành tinh của chúng ta (tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời). Như vậy, “Thiền là một trong những món quà quý báu nhất mà châu Á đã tặng cho thế giới” (Alan W. Watt, 1957, tr.3)[3] như lời của học giả người Mỹ đã nhận định từ những năm 1950 của thế kỷ trước.

Theo kinh Nguyệt đăng tam muội (Chandradipa Samadhi Sutra), hành thiền đúng phép có thể đem lại cho người hành thiền những lợi ích như sau: (1) Các căn được an tịnh và một cách tự nhiên, hành giả cảm thấy thích thú với thói quen hành thiền hằng ngày; (2) Lòng từ xâm chiếm tâm của hành giả. Với lòng từ, hành giả xa lìa mọi tội lỗi và xem tất cả chúng sanh như là anh chị em; (3) Những dục vọng làm mệt mỏi và đầu độc thân tâm như là giận giữ, keo kiệt, kiêu ngạo... dần dần xa lìa tâm của hành giả; (4) Nhờ hộ trì chặt chẽ các căn, cho nên những niệm ác, xấu không len vào tâm hành giả được; (5) Với tâm trong sáng và tư thái bình thản, hành giả không còn thèm muốn gì đối với những dục vọng thấp hèn; (6) Tâm thức của hành giả tập trung vào những ý niệm cao cả, mọi tư tưởng vị kỷ, ham muốn, quay cuồng theo dục vọng đều lìa xa; (7) Hành giả không lạc vào chủ nghĩa hư vô mặc dù thấy rõ mọi sự vật đều không rỗng bèo bọt; (8) Tuy vẫn còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng hành giả đã nhận thứccon đường giải thoát; (9) Nhờ đi sâu vào giáo pháp mầu nhiệm, hành giả nương tựa vào trí tuệ của Đức Phật; (10) Vì không còn gì hấp dẫn và làm cho hành giả ham muốn, nên hành giả cảm thấy như con phượng hoàng đã thoát khỏi lưới và đang bay lượn tự do trên bầu trời (Minh Chi, 2005a, tr.171-172).

Bàn về giá trị của thiền Phật giáo, chúng ta có thể nói tới thiền ở một cấp độ cao hơn mà các nhà nghiên cứu thiền gọi là Thiền tuyệt đối (Absolute samadhi). Thiền tuyệt đối chỉ dành cho những người có điều kiện thực hiện, các vị Tăng Ni mà ở đây, chúng tôi xin phép không bàn nhiều vì không có điều kiện. Chúng tôi cho rằng, những người bình thường trong cuộc sống hiện đại, chỉ cần thực hành được thiền tích cựcchúng ta đã rất thành công và được nhiều lợi ích trong cuộc sống.

2. Giá trị thuyết nghiệp của đạo Phật

Đạo Phật dù đã biến mất khỏi Ấn Độ sau hơn một ngàn năm tồn tại nhưng lại phổ biến ở các nước khác ở châu Á ngoài Ấn Độ và hiện nay nó trở thành một tôn giáo thế giới. Thuyết nghiệp của đạo Phật là một giá trị tôn giáo rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan, Sri Lanka... cũng như hiện nay nó có giá trị phổ quát toàn cầu.

Tương tự như thiền, thuyết nghiệp không phải là sản phẩm riêng của Phật giáo. Vốn dĩ, thuyết nghiệp đã có mặt từ rất lâu trong nền văn minh Ấn Độ, trước khi đạo Phật ra đời. Chúng ta có thể kể đến nhiều hệ tư tưởng của Ấn Độ cổ đại có thuyết nghiệp như thuyết nghiệp trong Tôn giáo Vệ-đa, thuyết nghiệp trong Bộ luật Manu cổ của Ấn Độ, thuyết nghiệp theo Thánh ca Bhagavad Gita, thuyết nghiệp theo Trường phái Yoga, thuyết nghiệp theo đạo Jain (Kỳ-na giáo)…

Thuyết nghiệp, theo đạo Phật bắt nguồn từ chữ Pāli kamma hay chữ Sanskrit karma (từ gốc từ kr là làm), Hán dịch là nghiệp (業), có nghĩa là “hành động”, “làm”. Nhưng theo thuyết nghiệp của đạo Phật, nó có một nghĩa đặc thù: nó chỉ cho “hành động có tác ý” (volitional action), chứ không phải tất cả mọi hành động (Walpola Rahula, 1962, tr.32). Như vậy, trước hết, đạo Phật cho rằng, nghiệp thiện hay ác chỉ có thể hình thành trên cơ sở động cơ tâm lý của đương sự, tức là có dụng tâm của đương sự mà Phật giáo Nguyên thủy gọi là tác ý (cetanā). Nói cách khác, tác ý chính là nghiệp, không có tác ý thì không có nghiệp. Theo đạo Jain thì mọi hành động đều tạo ra nghiệp, bất chấp đương sự có dụng tâm hay không, có đưa ý chí của mình vào hành động đó hay không. Quan điểm về nghiệp của đạo Phật rất tích cực, nó động viên con người nhiều hơn, tránh sự bi quan, lo lắng không cần thiết. Đạo Phật xem nghiệp là bất định, tức là có thể thay đổi được theo chiều hướng tốt hay xấu tùy theo đương sự tạo nghiệp. Nếu đương sự tạo ra nhiều nghiệp lành, nghiệp thiện thì nghiệp này có thể giúp cải tạo đời sống của đương sự theo chiều hướng tốt. Ngược lại, đương sự tạo ra nhiều nghiệp ác, nghiệp dữ thì nghiệp sẽ hủy diệt đời sống của đương sự. Và đây chính là ý nghĩa hết sức tích cực, nhân bản của thuyết nghiệp của đạo Phậtchúng ta nên vận dụng càng nhiều, càng tốt vì nó có tính tích cực, cải thiện cá nhân, cải thiện xã hội trở nên tốt đẹp.

Theo Minh Chi (1996), đạo Phật đề cập tới hai loại nghiệp quan trọng quyết định hướng tái sinh và cuộc sống của chúng sinh đó là dẫn nghiệp  mãn nghiệpDẫn nghiệp (còn gọi là tái sanh nghiệppreproductive karma) là nghiệp dẫn dắt, quyết định hướng tái sinh của chúng sinh vào một trong sáu cõi (theo đạo Phật): cõi Trời, cõi A-tu-lacõi Người (ba cõi thiện); cõi Súc sinh, cõi Quỷ đói và cõi Địa ngục (ba cõi ác). Đây là loại nghiệp có cường độ rất mạnh.

Mãn nghiệp (引 業) hay còn gọi là năng trì nghiệp (能 遅 業, supportive karma) là nghiệp sai biệt làm cho mọi chúng sinhsai biệt không ít thì nhiều, không có hai loại chúng sinh thọ nghiệp giống nhau hoàn toàn (do nghiệp của chúng tạo ra không hoàn toàn giống nhau). Mãn nghiệp giải thích được tại sao ở đời này có người hạnh phúc, người bất hạnh, người giàu sang, kẻ nghèo hèn, người có uy tín nói ra ai cũng tin, người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người có dung nhan đẹp đẽ, kẻ có thân thể xấu xí, có người mới sinh ra mắc phải những dị tật, hay những chứng nan y khó chữa v.v… Tất cả những sai biệt đó, tuy cùng là một thân phận người, nhưng do họ tạo nghiệp quá khứ, ngay cả hiện tại khác nhau cho nên chịu thọ nghiệp khác nhau.

Vòng ngoài cùng: vòng cực cộng nghiệp 1; Vòng lớn thứ 2: vòng đại cộng nghiệp 2; Vòng lớn thứ 3: vòng cộng nghiệp của quốc gia, dân tộc; Vòng thứ 4: Vòng cộng nghiệp của địa phương; Vòng thứ 5: Vòng cộng nghiệp của gia đình; Vòng thứ 6: Vòng cộng nghiệp của hai vợ chồng; Vòng trong cùng: biệt nghiệp của từng cá nhân.

Ngoài ra, theo học giả Minh Chi (2007), đạo Phật còn đề cập tới một số loại nghiệp khác như:

Năng tiêu nghiệp (能  業, countereractive karma, impeding karma) là loại nghiệp tùy vào tình hình mà có thể tốt hay xấu! Chẳng hạn, một người được hưởng phước báo, sống trong một gia đình giàu sang, nhưng người này không lo học hành, không giữ lối sống đạo đức mà ngược lại chỉ biết ăn chơi trác tán, phá sản, rốt cuộc trở thành kẻ nghèo, đi ăn xin. Nghiệp mà anh ta đã tạo ra như vậy là loại năng tiêu nghiệp xấu, tiêu cực. Ngược lại, có người sinh ra trong một gia đình nghèo nàn, phải lao động cực khổ, nhưng anh ta cố gắng làm việc, học hành, sống lối sống đạo đức, giúp người khác. Kết quả, anh ta vượt ra khỏi cảnh nghèo, có uy tín, có tri thức, được mọi người tôn trọng. Nghiệp mà người ấy tạo ra như vậy là năng tiêu nghiệp thiện, tích cực.

Năng hủy nghiệp (能 毀 業, destructive karma) là loại nghiệp do chúng sinh tạo ra trong đời sống quá khứ hay hiện tại, có cường độ rất mạnh có thể hủy đi dẫn nghiệp một cách bất ngờ. Nó giải thích được là vì sao con người chết đột tử hay chết bất đắc kỳ tử, như chết vì thiên tai, chết vì tai nạn. Năng hủy nghiệp tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Sách Phật thường ví con người sống như chiếc đèn dầu đang cháy. Khi nào chiếc đèn cạn dầu, cháy hết bấc là lúc thọ mạng của người ấy đã hết. Năng hủy nghiệp tác động như một cơn gió thổi tắt vụt ngọn đèn, tuy đèn còn nhiều dầu và chưa cháy hết bấc như những trường hợp con người chết đột tử, cuộc sống đột ngột chấm dứt. Sách Phật thường nói có năm trường hợp con người tạo ra nghiệp cực ác phải lãnh hậu quả là bị đọa vào cõi địa ngục sau khi mạng chung như giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, cố ý làm chảy máu Phật, phá hòa hợp Tăng chúng.

Cộng nghiệp (共 業, collective karma) là loại nghiệp chung mà một loại chúng sinh hay nhiều loại chúng sinh cùng phải chịu chung. Chẳng hạn, một dân tộc bị chiến tranh liên miên, bao nhiêu người phải cầm vũ khí ra chiến trường mà giết hại lẫn nhau. Hoàn cảnh mà cả dân tộc ấy đang phải chịu cảnh chiến tranh đó là cộng nghiệp, tức nghiệp chung cho mọi người trong cộng đồng, dân tộc đó.

Biệt nghiệp (共 業, individual karma) là loại nghiệp riêng biệt của từng loại chúng sinh, nghiệp này không ai giống ai. Chẳng hạn, người thân của chúng ta chịu bệnh tật giày vò rất đau khổ, chúng ta rất muốn chia sẻ nỗi đau khổ đó với họ nhưng không giúp gì được (tr.25-44).

Cận tử nghiệp (近 死 業, approximate death karma): người gần chết không đủ sức hành động bằng thân, thậm chí bằng lời nói, do đó nghiệp của đương sự khi sắp mạng chungý nghiệp, được tạo ra bằng ý nghĩ của họ. Nghiệp này có cường độ rất mạnh, có thể quyết định hướng tái sinh của đương sự trong tương lai.

Có thể minh họa tầm quan trọng của cận tử nghiệp bằng rất nhiều ví dụ, chúng tôi xin lấy ví dụ điển hình trong kinh Phật, truyện vua A Dục. Vua Asoka được đánh giá là một vị vua hiền minh nhất trong lịch sử của nhân loại. Ông ủng hộ tất cả các tôn giáo hết lòng, hết sức, đặc biệtđạo Phật. Ông là một Phật tử thuần thành, yêu thương hết thảy mọi loài một cách sâu sắc. Một đấng quân vương như ông, đã tạo ra cho chính bản thân ông nhiều thiện nghiệp. Một chuyện kỳ lạ xảy ra là, trước khi lâm chung, có chuyện không đâu làm cho nhà vua giận dữ, nghiệp ác dẫn ông tái sanh thành một con mãng xà lớn. Em ông là Đại đức Tissa biết vậy bèn đến bên nhà vua (lúc đó đã biến thành con rắn) nói những lời từ ái, khuất phục nó, khiến cho con mãng xà phút chốc lột xác, tái sanh vào cõi thiện lành.

Câu chuyện cho chúng ta thấy cận tử nghiệp là rất mạnh, đặc biệt nó chỉ được tạo ra bằng ý nghĩ. Câu chuyện trên thật có ý nghĩa nhân bản về nghiệp của đạo Phật. Kinh Pháp cú (Dammapada) có nhiều ẩn dụ về nghiệp rất hay, xin trích dẫn ra đây một vài bài để minh họa cho nghiệp theo quan điểm của đạo Phật: “Không trên trời dưới biển/ Không lánh vào động núi/ Không nơi nào trên đời/ Tránh được quả ác nghiệp”. “Không trên trời, giữa biển/ Không lánh vào động núi/ Không chỗ nào trên đời/ Tránh khỏi tay thần chết.” (Kệ 127 & 128)[4].

Ý tứ hai bài kệ là: kẻ ác, một khi đã tạo ra nghiệp ác rồi thì không có cách nào trốn khỏi quả báo của nghiệp ác, dù có trốn trên trời, lặn xuống biển sâu hay là nấp vào động núi. Cũng vậy, chúng sanh không thể nào thoát được cái chết chờ đợi mình sau khi thọ mạng đã hết.

Người đời thường nói “lời nói gió bay”. Đạo Phật không cho rằng như vậy vì lời nói cũng là một dạng nghiệp được tạo tác (khẩu nghiệp), cho nên không thể xem thường được. Ta thấy trong đời sống thường ngày, nhiều trường hợp lời nói tuy trên hình thức gió thổi đi mất nhưng người nói nhiều khi phải trả giá ngay tức khắc, có khi là bằng mạng sống của chính mình vì hành vi khẩu nghiệp bất thiện của mình. Chúng ta thấy báo đưa tin nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra, chỉ vì một câu nói đùa giữa người này và người kia mà sinh ra mâu thuẫn lớn. Một lời nói tốt đẹp có thể cứu một mạng người, hay mang lại hạnh phúc, an lành cho người khác thì chúng ta không thể không trân trọng khi phát ngôn. Bài học về nghiệp là bài học đáng giá, chúng ta phải luôn ghi nhớ để có ứng xử sao cho tốt trong mọi mối quan hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cộng đồng với cộng đồng, để tránh những xung đột không cần thiết giữa cá nhân với cá nhân, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Đạo Phật có nhìn nhận về nghiệp rất linh hoạt, có tính nhân bản cao. Con ngườikết quả của nghiệp, cũng là chủ nhân của nghiệp. Bản thân con người có thể chuyển nghiệp theo hướng tích cực, nếu muốn. Nhà nghiên cứu Phật học Đài Loan, Lâm Thanh Huyền (2007) cũng đồng ýcon người chúng ta cũng có thể tác động lên một số khâu trong 12 nhân duyên, đặc biệt là các chi phần ái, thủ, hữu của chúng ta“Trên hình thức, cuộc sống chúng ta hình thành một đường thẳng quá khứ, hiện tại, vị lai. Thực ra, thì đó là một sự quay vòng như trên mặt đồng hồ đeo tay vậy. Do đó, kinh nghiệm hiện tại, có thể đã từng là kinh nghiệm quá khứ và những kinh nghiệm đó sẽ lặp lại nhiều lần trong vị lai. Chúng ta không cách nào hiểu biết được các nhân từ vô minh đến thọ, cũng không quản được 2 nhân sanh và lão tửvị lai. Làm gì cho hiện tại đây, tức là với thái độ chân thực, xem xét khâu ái dục của chúng ta, khâu tham cầu của chúng ta, và nghiệp của chúng ta. Đó là những điều mà hàng ngày chúng ta đều có thấy, cảm thọ và cách tân, đổi mới được!” (tr.1)[5]. Những Phật tử thuần thành luôn tin tưởng vào thuyết nghiệp của đạo Phật và họ cố gắng làm lành, lánh dữ. Và đó là ý nghĩa lớn lao và nhân bản của thuyết nghiệp của đạo Phật.

Giá trị thuyết nghiệp của đạo Phật còn ở chỗ, nó dùng để giải thích những hiện tượng như thần đồng, trí nhớ siêu phàm của một số người, sự sai lệch giữa người và người. Cùng là con người nhưng nhiều người có những thân phận rất khác nhau. Người thì rất thông minh, người thì đần độn, người thì quá đẹp, cũng có những người quá xấu xí (về ngoại hình), người có lòng tốt luôn giúp đỡ mọi người, làm việc thiện lành, người có tà tâm, độc ác, chỉ biết thủ lợi, lợi ích cho bản thân mình, bất chấp sự đau khổ của người khác. Gần đây, ở phương Tây có một cuộc đàm thoại sôi nổi giữa hai nhà bác học lớn của thế giớiliên quan tới đạo Phật. Một người là GS.Trịnh Xuân Thuận - một người Mỹ gốc Việt, nhà vật lý thiên văn nổi tiếng, công tác tại Viện Công nghệ học California, đồng thời là giáo sư tại trường Đại học Verginia - và nhà bác học kia là nhà sinh vật học Matthieu Ricard, từng công tác lâu năm tại Viện Pasteur (Paris), ông có học vị tiến sĩ và có 30 năm tu hành tại tu viện Shechen gần Katmandu thuộc Nepal.

Cuộc đàm thoại của hai nhà bác học được ghi lại trong quyển L’infini Dans La Paume De La Main, được dịch là Cái vô hạn trong lòng bàn tay. Chương VIII của cuốn sách này bàn về nghiệp của đạo Phật (biệt nghiệp và cộng nghiệp). Cuộc đàm thoại giữa GS.Trịnh Xuân Thuận và nhà tu hành Mathieu Ricard rất thú vị, bàn về vấn đề nghiệp cũng rất hứng thú, và cả hai nhà bác học đều có những điểm tương đồng nhất định. Chẳng hạn, cả hai nhất trí về nghiệp và những kết quả do nghiệp tạo ra mới có thể giải thích được những trường hợp mà khoa học hiện đại không thể lý giải được như những đứa bé thiên tài như Mozart, mới 5 tuổi đã là một nghệ sĩ dương cầm xuất sắc và soạn được nhiều bản nhạc... (Trịnh Xuân Thuận, & Mathieu Ricard, 2006, tr.201). Có những đứa trẻ, mới sinh ra mắc những chứng bệnh hiểm nghèobản thân chúng chưa ý thức được gì. Nghiệp không những có tầm quan trọng về mặt đạo đức mà chúng còn tạo ra thế giới chúng ta. Quả thật đúng như vậy. Chúng ta thử nghĩ, nếu trong một gia đình, ai cũng tạo ra nghiệp tốt nhằm vun đắp cho gia đình đó thì các thành viên trong gia đình ấy đều được hưởng quả báo tốt đẹp, hạnh phúc. Xã hộiđại đa số người tạo ra nghiệp tốt về ý nghĩ, lời nói và hành động thì xã hội ấy chắc chắn được cải tạo theo chiều hướng tốt đẹp, tạo ra nhiều niềm vui, an lạc cho cộng đồng người trong xã hội đó. Nếu ở đâu trên thế giới người ta cũng cố gắng tạo ra nghiệp tốt thì ắt hẳn sẽ không có chuyện thù hằn tôn giáo, sắc tộc, dân tộc dẫn tới đánh nhau, chiến tranh, dẫn tới giết hại nhau, hủy hoại môi trường sống, thậm chí là nguy cơ hủy diệt cả sự sống trên hành tinh này. Chúng tôi cho rằng đây là điều mà mọi người cần quan tâm, suy nghĩ đúng đắn và hành động sáng suốt.

3. Kết luận

Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ và nó cũng đã biến mất khỏi Ấn Độ bởi nhiều lý do mà trong bài viết này chúng tôi không có điều kiện để bàn đến. Tuy nhiên, đạo Phật đã phát triển mạnh ở châu Á và hiện nay đã phổ biến toàn cầu. Thiền Phật giáo đã kế thừa tư tưởng thiền của các tôn giáo và hệ phái triết họcẤn Độ và những giá trị của nó ngày càng được khẳng định và phát huy tác dụng đối với con người trong thời hiện đại. Thiền giúp cho con người định tâm, cân bằng tâm lý, làm việc có hiệu quả, giữ gìn sức khỏe và làm đẹp. Chính vì những giá trị phổ quát của thiền Phật giáo như chúng tôi đã trình bày mà nhân loại trên thế giới ngày càng quan tâm đến thiền dù nó thuộc về thiền phái nào đi chăng nữa.

Bên cạnh giá trị của thiền Phật giáo, thuyết nghiệp của đạo Phật cũng có giá trị rất phổ quát và nhân bản. Thuyết nghiệp của đạo Phật không mang tính quyết định luận máy móc, mà nó rất năng động, tích cực, có chỗ cho ý chí tự do của con người, đề cao con người. Con người chỉ có thể tạo nghiệp khi có dụng tâm. Thuyết nghiệp của đạo Phật cho ta những bài học quý giá và sâu sắc như bài học nhẫn nại và bình thản. Nếu một việc gì không may xảy ra cho chúng tađời sống này đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp bất thiện của quá khứchúng ta đã làm từ trước. Ngược lại, nếu gặp may, chúng ta cũng không quá vui mừng mà mất hết tỉnh táo. Niềm tin vào thuyết nghiệp của đạo Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết mình, sống hết mình vì lý tưởng cao cả đó. Ngoài ra, thuyết nghiệp giúp ta sống tỉnh táo và có tinh thần trách nhiệm. Người tin vào thuyết nghiệp biết rằng mỗi phút giây mình sống đều tạo ra nghiệp qua suy nghĩ, lời nóiviệc làm. Chúng đều có tác động đến bản thân, gia đìnhxã hội trong hiện tại và tương lai. Hiểu biết như vậy, chúng ta sống đầy tinh thần trách nhiệm với những ý nghĩ, lời nói và hành động của mình dù là cái nhỏ nhất, chúng cũng giúp chúng ta cải tạo bản thân, cải tạo gia đìnhxã hội, đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người.

Nói tóm lại, giá trị phổ quát của thiền và thuyết nghiệp của đạo Phật như chúng tôi đã phân tích là những đóng góp quan trọng của đạo Phật đối với châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Cần tập trung khai thác tốt hơn nữa những giá trị hữu ích này, góp phần làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, con ngườicuộc sống hạnh phúc hơn. Đó là những suy nghĩ của chúng tôi đối với giá trị phổ quát về thiền và thuyết nghiệp của đạo Phật.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Alan W. Watt. (1957). The Way of Zen. USA: Patheon Books Inc.

2.      Chris Barker. (2004). The SAGE dictionary of cultural studies, London: SAGE Publications Ltd.

3.      Kinh Pháp cú (Thích Minh Châu dịch). Hà Nội: Tôn Giáo, 2000.

4.      Lâm Thanh Huyền. (2007). Tin tức từ biển tâm (Minh Chi dịch). Hà Nội: Tôn giáo.

5.      Minh Chi & Hà Thúc Minh. (1995). Đại cương triết học phương Đông. Hồ Chí Minh: Đại học Tổng hợp.

6.      Minh Chi. (1996). Thuyết Bốn đế (lưu hành nội bộ). Hồ Chí Minh: Viện Cao cấp Phật học.

7.      Minh Chi. (2005a). Nói chuyện về thiền, in trong Thiền nguyên thủy và Thiền phát triển. Hà Nội: Tôn Giáo, tr.177.

8.      Minh Chi. (2005). Thiền và cuộc sống hiện tại, in trong Thiền nguyên thủy và Thiền phát triển. Hà Nội: Tôn Giáo, tr.181-195.

9.      Nguyễn Huệ Chi (cb). (1988). Thơ văn Lý - Trần (tập II, quyển thượng). Hà Nội: Khoa Học Xã Hội.

10.  Trần Ngọc Thêm. (2015). Những cơ sở lý luận về giá trị và việc xây dựng hệ giá trị định hướng cốt lõi, in trong Một số vấn đề về giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại. Hồ Chí Minh: Đại học Quốc Gia.

11.  Trịnh Xuân Thuận & Mathieu Ricard. (2006). Cái vô hạn trong lòng bàn tay - Từ Big Bang đến giác ngộ (Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch). Hồ Chí Minh: Trẻ.

12.  Walpola Rahula. (1962). What the Buddha Taught. New York: Grove Press.


[1] ThS. NCS.Võ Văn Thành, CTV. TT Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. SĐT: 0988866113, email: vonhanchi@yahoo.com; ThS. NCS.Lê Thị Thanh Tâm, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Tp.Hồ Chí Minh. SĐT: 0907456053, email: thanhtam1983qb@yahoo.com.

[2] Nhà phê bình Eric Fromm đã từng phê phán: “Ở thế kỷ thứ XIX, vấn đềThượng đế đã chết. Ở thế kỷ XX, vấn đềcon người đã chết”. Nguyên văn tiếng Anh: “In the nineteenth century, the problem is that God is dead. In the twentieth century, the problem is that man is dead”. (Dẫn lại Minh Chi, 1993, Đại cương triết học phương Đông, phần I, Hồ Chí Minh: Đại học Tổng Hợp).

[3] “Zen is one of the most precious gifts of Asia to the world.” (Alan W. Watt. (1957). The Way of Zen, Patheon Books Inc, p.3.

[4] Kinh Pháp cú (Thích Minh Châu dịch). Hà Nội: Tôn Giáo, 2000, tr.39.

[5] Lâm Thanh Huyền (2007) giải thích thêm: Đạo Phật có thuyết duyên khởi với 12 nhân duyên giống như 12 giờ, ghi trên mặt đồng hồ đeo tay chúng tachúng ta có thể hình dung 12 nhân duyên theo một trật tự hết sức logic là vô minh -> hành-> thức-> danh sắc-> lục nhập -> xúc -> thọ -> ái ->  thủ -> hữu -> sanh -> lão, tử (tr.13).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12858)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11535)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16740)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 19809)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15796)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13032)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 12978)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13010)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15449)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12170)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13003)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15638)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13742)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 14966)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13686)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13659)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 12873)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13565)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13427)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15123)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14579)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13734)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14049)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13263)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13276)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14499)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13726)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14828)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17546)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14269)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16679)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 17865)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15355)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15243)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 16877)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29172)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16139)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 17894)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19146)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21274)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19614)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 22809)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17133)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17529)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16072)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 15848)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21577)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19664)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20033)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19301)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant