Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chết Đi Về Đâu

16 Tháng Tám 202019:08(Xem: 5994)
Chết Đi Về Đâu
CHẾT ĐI VỀ ĐÂU

Tâm Bá

Định Nghĩa Chánh Niệm

Thuở xưa, có một đạo sư tên là Araka, người đã thoát ly sự thèm khát dục vọng. Đạo sư này có hàng trăm đệ tử. Khi ấy, vị này thường dạy cho để tử của mình rằng: “Này các Bà-la-môn, đời sống con người thật ngắn ngủi, giới hạn và phù du, đầy cả khổ đau, đầy cả phiền não. Điều này, con người phải khéo hiểu. Con người phải làm điều thiện và sống đời thanh tịnh, vì không có ai sinh ra mà thoát khỏi cái chết”. (Tăng Chi Bộ Kinh III, chương VII, Đại PhẩmAraka).

Vâng! Con người sinh ra không ai mà không thoát khỏi cái già và chết. Thời gian không chờ đợi một ai cả, kiếp người không mấy lâu sẽ qua đi, đời sống đầy những khổ lụy. Tất cả đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, duyên sinh. Điều này đã được đức Phật xác chứng trong kinh tạng Nikaya.

Một lần nọ, tại thành Xá-vệ (Savathi), vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) của nước Kosala bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, có người nào sinh ra mà thoát khỏi già và chết không?

Đức Thế Tôn trả lời:

- Thưa Đại vương, không có ai sinh ra mà tránh khỏi già và chết. Ngay cả những người thuộc giai cấp Sát-đế-lợi đại phú giàu có, nhiều tài sảncủa cải, nhiều vàng bạc, nhiều kho tàng và hàng hóa, nhiều ngũ cốc, vì họ đã sinh ra, họ không thoát khỏi già và chết. Ngay cả những Bà-la-môn đại phú… những gia chủ đại phú giàu có… nhiều của cảingũ cốc, vì họ đã sinh ra, họ không tránh khỏi già và chết. Ngay cả những vị Tỳ-kheo đã chứng đắc quả A-la-hán, những vị đã đoạn tận các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã hoàn toàn đoạn trừ các kiết sử, đã hoàn toàn đạt được giải thoát nhờ chánh trí. Ngay cả thân của quý vị ấy cũng phải chịu sự tan rã, cũng phải bị vứt bỏ. (Tương Ưng Bộ Kinh I).

Qua đoạn đối thoại giữa vua Ba-tư-nặc và đức Phật, đã cho chúng ta thấy rằng giữa cuộc đời này, khi con người sinh ra không ai có thể tránh được sự già và chết. Không một giai cấp, địa vị nào có thể trốn tránh được điều này. Không phải một người thuộc giai cấp thống trị quyền quý, giàu có đại phú gia hay là giai cấp Bà-la-môn được nhiều người kính trọng cho đến những bậc thoát ly đời sống tầm thường, chứng đắc Thánh quả A-la-hán, đoạn trừ các lậu hoặc… mà có thể mua chuộc sự già và chết hay đi ngoài sự già và chết.

Như vậy, chúng ta cần phải làm gì với sự già và chết, khi mà cuộc sống của chúng ta cứ dần trôi qua từng ngày? Điều quan trọng chúng ta cần lưu tâm đến không phải là làm sao để tránh được sự già và chết trong cõi nhân sinh này, mà chúng ta cần quan tâm nhiều hơn là sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu? Tái sanh vào cảnh giới nào? Khổ đau hay hạnh phúc? Đồng thời, làm sao để làm chủ được con đường tái sinh của chính mình?

Trong bài kinh Abhinhapaccavekkhitabbhattatthanasutta, phần Pancakanipata, thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, đức Phật thuyết dạy về nghiệp và quả của nghiệp rằng: “Ta có nghiệp của riêng ta. Ta là người thừa hưởng quả của nghiệp. Nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con quyến thuộc của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện nghiệp hoặc ác nghiệp’, ta là người thừa hưởng quả an lạc của thiện nghiệp hoặc quả khổ của ác nghiệp ấy”.

Lại nữa, đức Phật cũng từng dạy: “Này chư Tỳ-kheo! Sau khi đã có tác ý rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý”. (Trích Tăng Chi Bộ Kinh, phần Chakkanipata, kinh Nibbedhikasutta).

Nghĩa là, khi thân, khẩu, ý tạo nên một điều lành hoặc một điều ác nào đó với một đối tượng hay là nhiều đối tượng bên trong thân hay bên ngoài thân, đều bắt nguồn từ sự tác ý, sự hướng tâm suy nghĩ đến đối tượng ấy. Lúc này, sự tác ý như vậy được gọi là nghiệp.

Vì sự tác ý tạo nghiệp được khởi sinh từ trong chính bản thân của mỗi người, nên khi nghiệp hình thành thiện hay ác là nghiệp riêng của mỗi người không phải của ai khác, không liên quan đến một ai khác. Khi đó, mỗi người cũng là chủ nhân của nghiệp mà mình tạo nên. Không có ai có quyền thay đổi hay lấy đi. Lại nữa, khi xét về tính chất duyên sinh, nhân quả, thì một khi đã tác ý tạo nghiệp, nghiệp được hình thành sau một thời gian sẽ cho quả của nghiệp. Bấy giờ, người tạo nghiệp sẽ chính là người thừa hưởng quả nghiệp, không ai thay thế nhận giúp. Và khi ấy, quả của nghiệp mang lại sự bình an hạnh phúc hay bất hạnh khổ đau, thì mỗi người cũng phải chấp nhận, không thể chối từtrốn tránh được.

Bên cạnh đó, khi nghiệp đã gieo tạo dù ít hay nhiều, nặng hay nhẹ mà chưa cho quả ngay nơi kiếp sống hiện tại, thì nó sẽ được tích lũy lưu chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Chính vì nguyên nhân này, phần nhiều chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi, tái sanh mãi không thôi.

Trong Trung Bộ Kinh, bài kinh số 135, kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, đức Phật từng có lời dạy với thanh niên Subha rằng:

- Này Subha! Trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà nào là người sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tàn nhẫn có bàn tay đẫm máu, hăng say trong sự sát sinh, không có lòng thương xót đến tất cả chúng sinh cùng khổ… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy có cơ hội cho quả tái sinh trong các cõi ác giới, chịu quả khổ trong cõi ác giới ấy…

- Này Subha! Trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà nào là người không sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tránh xa sự sát sinh, từ bỏ khí giới sát sinh, có tâm biết hổ thẹn tội lỗi và biết ghê sợ tội lỗi, có lòng thương xót đến tất cả chúng sinh cùng khổ, có tâm từ, tâm bi tế độ đến tất cả chúng sinh... Sau khi người ấy chết, dục giới thiện nghiệp không sát sinh ấy có cơ hội cho quả tái sinh trên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời ấy…

Kinh văn trên một lần nữa khẳng định rằng, chúng ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp mà chúng ta đã tạo qua những hành động tác ý thiện hay xấu ác, để rồi phải nhận lãnh quả báo cho đời sống hiện tại và cho những đời sống về sau.

Như vậy, từ một số trích dẫn về lời đức Phật dạy trong kinh tạng, mỗi chúng ta hãy quán sát lại tự thân qua những hành động, việc làm thường ngày đã tạo nên những thiện nghiệp hay ác nghiệp. Từ đó, chúng ta sẽ biết được sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta sẽ tái sinh vào cảnh giới nào, đi về đâu, về chốn bình yên hạnh phúc hay là nơi khổ cảnh xót thương.

Đối với chúng ta là những người đệ tử Phật, những người đi trên lộ trình học đạo chuyển hóa thân tâm, hướng đến con đường tỉnh thức, tìm về giải thoát, thì chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày. Sự học và hành không chỉ dựa trên mặt lý thuyết suông một ngày hai ngày, mà là cả một chặng đường dài. Vì lẽ đó, chúng ta cần phảilòng tin chân thật, vững chắc nơi Tam Bảo; tin nơi đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát vượt thoát khổ đau; tin nơi giáo phápcon đường đưa đến sự giải thoát; và tin nơi Tăng là đoàn thể Tăng chúng thanh tịnh, thay mặt chư Phật hoằng truyền giáo pháp. Khi chúng ta thực hiện được những điều này, thì đồng nghĩa những thiện nghiệp của chúng ta ngày càng tăng trưởng, và những ác nghiệp, bất thiện pháp dần được đẩy lùi, chuyển hóa. Có như vậy, khi kết thúc kiếp sống hiện tại, chúng ta sẽ được sanh về cảnh giới an lành, tốt đẹp là điều đương nhiên.

Ví như một người nhận chìm một chiếc bình sữa, hay một bình dầu vào trong một hồ nước sâu và rồi đập bể chiếc bình ấy. Lúc này, các mảnh vỡ của chiếc bình sẽ chìm xuống, còn chất sữa hay dầu ấy sẽ nổi lên trên mặt nước. Hay giống như một thân cây khi sống hướng về phía ánh sáng mặt trời hay một hướng nào đó, thì lúc giông bão đến hoặc có người chặt đi gốc rễ nó, nó sẽ ngã về hướng ấy, không thể ngã về hướng ngược lại được.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh 5, bài kinh số 21, kinh Mahanama, phẩm Saranani, có một câu chuyện như sau:

Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahanama đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, họ Thích Mahanama bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, Kapilavatthu này là phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần chúng khắp nơi chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ-kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy, con gặp con ngựa cuồng chạy, con gặp người cuồng chạy, con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy, con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp bị hoang mang, tâm con nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của con là gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?”.

Lúc bấy giờ, đức Phật dạy:

- Chớ có sợ, này Mahanama! Chớ có sợ, này Mahanama! Không ác sẽ là cái chết của ông! Không ác là cái chết của ông! Này Mahanama, với ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, tâm tu tập trọn vẹn về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, dầu thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, hay giả can ăn, hay các loại chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

- Ví như, này Mahanama, một người nhận chìm một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm xuống nước; nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy, này Mahanama, với ai đã lâu ngày tâm được tu tập trọn vẹn về tín, tâm được tu tập trọn vẹn về giới, tâm được tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm được tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm được tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, đoạn diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, giả can ăn hay các sanh loại sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ; thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

Tiếp đó, bài kinh số 22, thuộc Tương Ưng Bộ Kinh 5, kinh Mahanama, phẩm Saranani, đức Phật có lời dạy với ngài Mahanama như sau:

- Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật: “Đây là bậc Ứng Cúng… Phật, Thế Tôn... Đối với Pháp… đối với Tăng… thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến thiền định.

- Ví như, này Mahanama, một cây thiên về phía Đông, hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó sẽ ngã về phía nào?

Mahanama trả lời:

- Bạch Thế Tôn, về phía nào nó thiên, về phía nào nó hướng, về phía nào nó xuôi.

Đức Thế Tôn khẳng định:

- Cũng vậy, này Mahanama, do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.

Như vậy, với hai trích dẫn lời đức Phật dạy cho ngài Mahanama cùng những ví dụ chân thật, đã một lần nữa cho chúng ta biết rằng kết quả của con đường tái sinh sau khi chúng ta kết thúc kiếp sống này sẽ đi về đâu? Và hơn hết, qua đây chúng ta biết rằng chính chúng ta sẽ là người quyết định con đường đi của chính mình, chứ không phải một ai khác. Điều này được góp nhặt và đúc kết từ những gì mà chúng ta tạo nên ngay đời sống hiện tại này.

Tâm Bá
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1180)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1376)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1449)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1481)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1378)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1321)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1136)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1244)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1236)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1320)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1339)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1408)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1275)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1384)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1283)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1248)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1315)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1245)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1421)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1678)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1369)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1668)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1273)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1189)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1404)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1263)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1321)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1471)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1710)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1724)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1529)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1727)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1406)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1375)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1892)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1466)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1417)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1369)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1345)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1441)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1292)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1548)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1535)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1406)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1409)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1301)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1697)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1453)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant