Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Để Chánh Pháp Trường Tồn

14 Tháng Mười Một 202018:32(Xem: 3651)
Để Chánh Pháp Trường Tồn
ĐỂ CHÁNH PHÁP TRƯỜNG TỒN

Thích Trung Định

hinh phat 1

Xây dựng niềm tinvấn đề căn bản của người đệ tử Phật. Người Phật tử khi đã xác quyết với Tứ bất hoại tín, ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin vào Thánh giới thì dù thế sự có thế nào tâm vẫn luôn kiên định, không lay chuyển. Niềm tin ở đây luôn có sự suy xét của lý trí, sau khi thấu hiểu rồi mới tin theo chứ không tin một cách mù quáng.

Nhiều người khi thấy một vài biểu hiện không chánh đáng trong Phật giáo liền cho rằng Chánh pháp đã hoại diệt hay đó là dấu hiệu của thời kỳ mạt pháp rồi thối tâm, dẫn đến khổ đau muộn phiền. Trên thực tế, Chánh pháp không bao giờ mạt mà chỉ có lòng người mạt và đạo đức nhân tâm suy đồi. Biết được như vậy, ta không mất niềm tin nơi Tam bảoquyết tâm bảo vệ đạo pháp.

Thời Đức Phật tại thế, những dấu hiệu suy giảm đạo đức cũng từng xảy ra. Nhóm Lục quần Tỳ-kheo là những ví dụ điển hình. Câu chuyện tại Kosambi là một sự kiện đặc biệt nổi tiếng khi vị sư trì luật và vị sư trì kinh cùng đồ chúng tranh cãi nhau dẫn đến bất hòa trong Tăng. Sự việc căng thẳng đến nỗi Đức Phật phải bỏ vào rừng ẩn cư, cho đến khi mọi người nhận ra lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, mâu thuẫn chấm dứt Ngài mới trở về.

Có lần Tôn giả  Đại Ca-diếp thắc mắc vì sao trước đây khi Phật chưa chế giới, Tăng chúng ít xảy ra phiền não, chúng Tỳ-kheo lại ham học; còn ngày nay giới luật được chế thêm nhiều thì chúng Tỳ-kheo lại ít học tập. Đức Phật giải thíchchúng sinh đạo đức suy giảm nên học giới nhiều mà ít người chứng đắc Thánh trí. Ngài nói thêm: “Này Ca-diếp, thí như lúc kiếp sắp chuyển hoại, tuy vật báu thật chưa diệt mất nhưng vật báu ngụy tạo tương tợ lại xuất hiệnthế gian. Khi vật báu ngụy tạo xuất hiện, vật báu thật sẽ mất. Cũng vậy, Ca-diếp, Chánh pháp Như Lai lúc sắp muốn diệt, lại có tượng pháp sinh ra. Khi tượng pháp đã xuất hiệnthế gian rồi, Chánh pháp sẽ bị diệt”[1].

Qua đó có thể thấy, ngay thời Đức Phật còn tại thế, đã có hiện tượng các Tỳ-kheo phóng túng. Tuy nhiên, Chánh pháp Như Lai vẫn lưu  xuất trong thế gian vì đã có những đệ tử của Phật biết nghiêm trì giới luật, thực hiện đúng lời dạy của Ngài. Nhờ luôn có những bậc chân tu đáng kính, biết rõ giá trịthực hành đúng giáo pháp của đấng Từ phụ nên Chánh pháp Như Lai đã tồn tại trên thế gian, được truyền bá khắp châu Á rồi được lưu truyền khắp thế giới. Mặc dầu vậy, Đức Phật đã cảnh giác về sự xuất hiện của tượng pháp, là pháp tương tự, có vẻ giống với Chánh pháp nhưng thực ra đã bị xuyên tạc, và nguy hiểm ở chỗ mọi người cứ tưởng giáo pháp đã bị xuyên tạc ấy chính là Chánh pháp được Đức Phật đích thân giảng dạy.

Những câu chuyện về sự tích giới luật được ghi lại trong Luật tạng cũng có nội dung như vậy. Theo truyền thống, các Đức Phật chỉ thành lập giới điều khi cần thiết, khi có đầy đủ nguyên nhânđiều kiện. Nghĩa là khi có một hiện tượng hữu lậu xảy ra làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Tăng đoàn, Đức Phật liền chế định một giới điều tương ứng nhằm ngăn chặn các pháp hữu lậu khác diễn ra. Ngài dạy: “Này Tôn giả, Ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên Ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”[2].

Như vậy, các hiện tượng hữu lậu xảy ra trong Tăng đoàn thời Đức Phật là bằng chứng xác minh tâm tánh chúng sinh và sự cần thiết của giáo pháp để đối trị. Nói như vậy không phải để biện hộ cho những hành động xảy ra bây giờ là điều tất yếu. Thời nay đạo đức suy đồi, lòng người tham đắm nhiều nên chúng ta đang xa Phật, xa rời Chánh pháp. Tuy nhiên, cho dù thế sự có thế nào đi nữa thì Chánh pháp vẫn là miên viễn. Trong tám đặc tính của biển, có một đặc tính là: “Nếu biển không vơi đi thì cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông liên tục chảy về biển cả. Chánh pháp cũng vậy, Chánh phápChánh pháp, không phải vì nhiều người đi theo mới là Chánh pháp, hay không phải ít người đi theoChánh pháp không phải là Chánh pháp. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không bao giờ đánh giá được chân lý của đạo pháp này”.

Lời khẳng định trên cho chúng ta thấy, chân lýĐức Phật tuyên thuyết luôn khế lý, khế cơ và khế thời. Lời Phật dạy là bất hư vọng ngữ, bất cuống vọng ngữ, chân thật bất hư. Lời kinh luôn đúng với chân lý, hợp với căn cơ của chúng sinhthời đại nào cũng phù hợp. Những pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô thường, Vô ngã luôn có giá trị miên viễn. Hơn hai ngàn mấy trăm năm qua, cho đến bây giờ những giáo pháp ấy vẫn còn nguyên giá trị.

Trong thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng số lượng Phật tử Việt Nam và trên thế giới suy giảm. Những thống kê ấy chưa chính xác nhưng cũng gây ảnh hưởng đến trong nhận thức của người con Phật. Thực tế không phải xây dựng chùa to Phật lớn hay đông đúc Phật tử mới gọi là Phật pháp hưng thịnh. Mà ở nơi nào, người con Phật thực tu, thực học và có sự chứng ngộ tâm linh thì nơi đó Chánh pháp hưng thịnh. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không đánh giá được chân lý của đạo pháp này. Bởi Chánh phápChánh pháp, đó là chân lý miên viễn không giới hạn bởi không gianthời gian. Dù ở đâu, bất cứ khi nào thì chân lý ấy vẫn vậy. Chúng ta nghe lời khẳng định của Tôn giả A-nậu-lâu-đà rằng:

“Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đếtrạng thái hết sạch mọi đau khổnguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đếcon đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác”. (Kinh Di giáo)

Là người con Phật, nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyến, thương tâm. Cuộc đời là như thế, nên cần phải nỗ lực tinh tấn để tu tập thành tựu giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự vận hành không kiên định. Do đó, người con Phật hãy vững tâm an định không lung lay trước sự thịnh suy của cuộc đời. “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Nghĩa là: Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi/ Vì sự thịnh suy [cũng mong manh] như giọt sương đầu ngọn cỏ (Thiền sư Vạn HạnhThơ văn Lý-Trần).

Thành ra, muốn Chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian, người con Phật phải hành trì theo Chánh pháp. Đức Phật dạy: “Có năm pháp, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp. Thế nào là năm? Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống kính trọng, tùy thuận bậc Đạo Sư (Đức Phật); sống kính trọng, tùy thuận Chánh pháp; sống kính trọng, tùy thuận chúng Tăng; sống kính trọng, tùy thuận học giới; sống kính trọng, tùy thuận Thiền định. Chính năm pháp này, này Kassapa, đưa đến sự an trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp”[3].

Tóm lại, khi nào còn có người tôn trọng, kính trọng Đức Phật, kính trọng Chánh phápkính trọng chúng Tăng, tôn kính các học giới thì khi đó Chánh pháp vẫn còn tồn tại. Đây là thước đo chính xác nhất để nhận biết Chánh pháp tồn tại hay không tồn tại trên thế gian này. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống Chánh phápthực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, Chánh pháp thường còn và mãi mãi bất diệtthế gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 938)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 997)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1240)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant