Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Thiện Và Hạnh Phúc

25 Tháng Mười Một 202018:37(Xem: 3885)
Cái Thiện Và Hạnh Phúc
CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC

Nguyễn Thế Đăng


Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt

Từ thời thơ ấu, chúng ta đã biết thiện ác, tốt xấu là gì. Ăn cơm vung vãi đầy bàn là xấu, dơ dáy không tắm rửa là xấu, viết chữ cẩu thả là xấu, ăn nói thô tục chửi thề là xấu…Và ngược lại là tốt.

Trong các chuyện cổ tích, luôn luôn chúng ta muốn một kết thúc có hậu: kẻ ác phải thua, người tốt phải thắng, công chúa thì không thể lấy một kẻ gian thần bạc ác, mà phải lấy một hoàng tử anh hùng trung chánh, “cứu vật vật trả ơn” chứ không phải cứu vật vật trả oán, Bụt thì giúp cô Tấm chứ không giúp cô Cám…Tất cả chuyện cổ tích trên thế giới đều như thế: Cái thiện phải thắng cái ác.

Trong trí óc ngây thơ hồn nhiên, chúng ta vẫn mong đợi một sự công bình trong trận chiến giữa thiện và ác, và nếu có những giọt nước mắt tuổi thơ thì chúng ta khóc cho người thiện bị chà đạp, bị đọa đày, chứ không khóc cho người ác. Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng yêu thích cái thiện.

Và cũng từ thuở nhỏ, chúng ta biết đem lại sự bằng lòng, niềm vui cho cha mẹ, không muốn cho cha mẹ buồn. Chúng ta biết thế nào là niềm vui, một chút hạnh phúc khi cứu một con vật bị nạn, khi cho bạn một viên kẹo, cho bạn chơi chung một món đồ chơi, biết yêu thích những đức tính tốt đẹp của cha mẹ, thầy cô, anh em, bạn bè.

Biết thiện ác, biết thích cái thiện, ghét cái ác như một bản năng trong mỗi người chúng ta. Càng lớn lên, với giáo dục, với văn hóa, sự phân biệt thiện ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa càng rõ ràng và tạo nên sự phán đoán giá trị của con người. Người bình thường chúng ta không ai khen Hitler về những trại tập trung và lò hơi ngạt, không ai khen Pol Pot về việc giết hàng triệu người Campuchia. Và chúng ta đều khen ngợi trí thông minh, lòng nhân ái của Einstein, sự kiên cường vì tự do cho nhân dân mình của Nelson Mandela… Tóm lại, chúng ta không thể nào ca ngợi những tính xấu của con người, và chính những đức tính tốt đẹp của một số người đã đưa họ lên hàng những vĩ nhân.

Không nghi ngờ gì, con người được phân biệt với các loài khác vì sự biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, biết việc gì nên làm và không nên làm. Cuộc đời làm người chính là sự loại bỏ cái xấu, cái ác và trồng thêm, làm tăng trưởng những đức tính tốt, thiện. Hai câu kết của truyện Kièu:

      Thiện căn ở tại lòng ta
      Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.


Cuộc đời người, sự tiến hóa của con người là cái tâm phải đầy dẫy những thiện căn. Với Phật giáo, biết phân biệt thiện ác không chỉ là một đặc trưng xác nhận tính chất con người, mà hơn nữa, nó là điều kiện tất yếu để một chúng sinh có thể tái sinh làm người.

Lịch sử loài người, lịch sử của từng con người, là cuộc tranh đấuđầy gian khổ, có khi đau đớn, để cải thiện cái tốt chiến thắng cái ác cái xấu, cái chân cái đúng chiến thắng cái giả cái sai, cái đẹp chiến thắng cái xấu. Thế nên trên đỉnh cao nhân loại, những con người đã hoàn thành phần nào cuộc chiến thắng ấy luôn luôn được tôn vinh. Thế nên Đức Phậtdanh hiệu là Người Chinh Phục, Người Chiến Thắng (The Conqueror, the Victorious One).

Con người là loài có ưu thế vì bằng ý thức của mình biết hướng đến Chân Thiện Mỹ và là loài có khả năng đạt đến Chân Thiện Mỹ. Lịch sử loài người, sự tiến hóa của con người không gì khác hơn là hướng tới Chân Thiện Mỹ trong mọi mặt của cuộc sống, thoát khỏi những xiềng xích của cái đối nghịch Chân Thiện Mỹ vẫn cầm tù mình, và cuối cùng đạt đến Chân Thiện Mỹ hoàn toàn. KHông có một ngành học thuật, nghiên cứu nào, một hoạt động nào của con người mà không hướng đến ít nhất một trong ba cái đó. Không có người nào mong muốn mình và xã hội càng ngày càng xấu ác hơn, càng ngày càng gỉả dối sai lầm hơn, càng ngày càng xấu xí hơn. Chính vì hướng đến Chân Thiện Mỹ, thực hiện Chân Thiện Mỹloài ngườivăn hóavăn minh. Và càng hướng đến và thực hiện Chân Thiện Mỹ thì con người càng trở nên có văn hóavăn minh. Và càng hướng đến và thực hiện Chân Thiện Mỹ thì con người càng trở nên có văn hóavăn minh.

Cái thiện bao trùm toàn bộ cuộc sống con người, có mặt ỏ mọi ngóc ngách của đời sống. Ở đây chúng ta chỉ nói về sự cho. Cho là một điều thiện và cái đối nghịch với no, trộm cướp là cái xấu, cái ác. Thế nên việc cho được gọi là việc từ thiện.

Ngay từ nhỏ chúng ta biết đến niềm vui của sụ thiện, của lòng tốt, của sự cho. Mới sinh ra được vài tháng, người nào đến với ta bằng thiện cảm, vuốt má ta, cười với ta, chúng ta cười lại dù chưa biết nói, chưa biết nghe. Ở tiểu học, nghe lời cha mẹ cầm một lon gạo đưa cho người đi xin, cứu con chim bị thương, thả một con bướm bị nhôt trong phòng cứ đâm đầu vào ngọn đèn, cho con mèo ăn…chúng ta thấy vui. (Tiếc thay khi lớn lên, trong một xã hội tranh giành, ít người còn nhớ thời thơ ấu chúng ta đã từng là một Bồ-tát nhỏ như thế nào).

Làm một việc thiện nhỏ, chúng ta thấy vui. Có ai tự ý làm một việc thiện mà thấy khổ chưa? Thế thì nếu thiện cần phát triển nơi con người chúng ta, nơi thân khẩu ý chúng ta, hẳn là có hạnh phúc. Và đương nhiên, nếu thiện căn, sự thiện, lòng tốt hoàn toàn đầy dẫy, tràn ngập thân tâm chúng ta, hẳn là hạnh phúc càng bao la sâu thẳm.

Chúng ta có thể định nghĩa thiện là làm tốt, làm lành cho mình và cho người khác vật khác và làm ác làm xấu, làm hại cho mình và cho người khác vật khác. Thiện là khuynh hướng tự nhiên của con người, là bản năng của con người. (Chữ căn trong thiện căn có thể dịch thành bản năng, một chữ thông dụng của phương Tây). Sống theo bản năng thiện ấy, chúng ta cảm nhận niềm vui, hạnh phúc. Nhưng chúng ta vẫn thấy có sự lúng túng, khó khăn: cho mà đôi khi tiếc, đôi khi đau khổ. Làm việc thiện mà đôi khi dằn vật, khổ nhọc. Nói lời êm dịu làm vui lòng người thì khó hơn là chỉ trích, gây thương tổn cho họ.

Cái gì ngăn cản chúng ta làm điều thiện? Cái gì ngăn cản ta cảm nhận niềm vui và hạnh phúc? Đó là ‘cái ta’và đi liền theo nó là ‘cái của ta’. Tất cả mọi cái ác suy cho cùng đều bắt nguồn từ cái ta và cái của ta. Tật cả mọi tội ác, trộm cướp, tham nhũng, hại người, làm và bán đồ giả, chế biến thực phẩm có hại cho sức khỏe, gây tai nạn giao thông…tất cả và tất cả đều đến từ cái ta và những lực lượng hùng hậu của nó là tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ….Hóa ra cái ác chính là cái ta, một cái ta hiểu sai mình, tách lìa với mọi sự và đứng lên trên mọi sự. Đã thế, còn được trang bị bằng rất nhiều cai xấu ác.

Ở một mức độ cao hơn của nhận thức, chúng ta thấy cái ta là nguyên nhân của mọi cái ác. Suốt ngày tất cả ý đều xoay quanh cái ta, tất cả khẩu (lời nói) đều lấy cái ta làm điểm quy chiếu duy nhất, tất cả hoạt động của thân đều vì cái ta. Đời sống rốt lại chỉ là sự quanh quẩn trong một vòng vây của cái ta, ngoài ta ra không có gì hết. Cái ta làm chúng ta cô lập với thế giới, với người khác, với toàn bộ đời sống. Thấy một cái gì, nghe một cái gì, nghĩ một điều gì….cái ta tức khắc nhảy vào, gom mọi sự về nó, cho chỉ mình nó thôi. Con người bình thường chúng ta bị nhốt vào, bị giam cầm trong sự thống trị tuyệt đối của cái ta rất nhỏ hẹp nhưng nó tự cho nó là tất cả vũ trụ. Người khác và thế giới không còn hiện hữu; nếu hiện hữuhiện hữu qua sự nhuộm màu của cái ta. Bị giam cầm, ở tù chung thân trong cái ta ấy, chúng ta khổ đau, mà cô đơn là một thành phần. Đó là tình cảnh con người, qua những nhân vật vô danh của Kafka, qua Roquentin trong Buồn nôn (La Nausée) của J.P. Sartre, qua Meursault trong Người xa Lạ (L’Etranger) của Albert Camus, và qua những nhân vật phân mảnh của văn học hậu hiện đại.

Cái ta của chúng ta chỉ là một phần của cuộc sống chúng ta, một phương tiện của đời sống thực sự bao la của chúng ta. Chẳng có ai cho rằng một móng tay mình là tất cả vũ trụ, rồi cả đời ôm ấp hôn hít nó, thậm chí vì nó làm làm điều ác, họa chăng chỉ có trẻ nít hoặc người điên. Người trưởng thành về tinh thần, về tâm linh thì không thế. Họ vẫn có cái ta, sử dụng cái ta như một phần cuộc sống của họ ở đời, nhưng cái ta đó chỉ là một hạt cát trong số cát sông Hằng là tất cả chúng sanh không thể đếm hết mà thôi.

Ở mức độ cao hơn của nhận thức con người, nếu hoàn toàn chấp vào cái ta thì cái ta đó là kẻ thủ ác. Và ngược lại, cái thiện là sự nới lỏng, sự giải phóng khỏi cái ta. Cái thiện là sự thoát khỏi xiềng xích của cái ta và đặt cái ta vào đúng vị trí của nó: một bọt biển trong đại dương chứ chẳng phải là tất cả đại dương. Và như đã nói ở trên, cái thiện là hạnh phúc thì không cái thiện nào bằng, không hạnh phúc nào bằng sự giải phóng khỏi cái ta: như Tôn Ngộ Không bay vọt lên trời cao tự do khi đã thoát khỏi sự đè nặng của năm quả núi ngũ uẩn chịu đựng từ bao kiếp đến nay.

Từ đó chúng ta có cái thiện thật sự và hạnh phúc thật sự. Dĩ nhiên, không ai không có hạnh phúc mà có thể cho người khác hạnh phúc.

Phật giáocon đường của sự thiện, từ những sự thiện có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu đến sự thiện tối hậu. Đó là con đường của sự thiện, nghĩa là con đường của hạnh phúc. Hạnh phúc của Phật giáo không phải là một hạnh phúc tĩnh tại, không hành động. Nhưng làm sao có thể vừa hành động vừa giải thoát? Hành động là karma, là nghiệp. Dù là hành động tốt, nghiệp tốt, vẫn là sự trói buộc. Làm thế nào để có được sự đồng thời hạnh phúc của chính mình và của người khác? Chẳng phải cái gì chúng ta cho đi thì cái ấy mất mát nơi chúng ta sao? Có thể nào có thứ hạnh phúc mà càng cho đi thì càng có nhiều thêm? Nhưng với Phật giáo, hạnh phúc thật sự thì phải như vậy. Như thế mới nói đến chuyện lợi mình lợi người và đồng thời hạnh phúc cho cả hai bên.

Vấn đề này là một trong nhiều chủ đề của Kinh Kim Cương. Ở đây chúng ta chỉ trích ra một đoạn để học tập, để sống theo.

“Bồ-tát hãy không có chỗ trụ mà cho. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà cho, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà cho. Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát nên cho như thế, chẳng trụ nơi tưởng. Nếu Bồ-tát không trụ vào tướng mà cho, thì phước đức ấy (hạnh phúc ấy) là không thể suy nghĩ, không thể đo lường”.

Nguyễn Thế Đăng
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 87
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1488)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1935)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2065)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1673)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1585)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1651)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2220)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1914)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1855)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1689)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2003)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1622)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1767)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1977)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1513)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1759)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1730)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1975)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1747)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1603)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1574)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1589)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1505)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2028)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1591)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2134)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1782)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1858)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2054)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2323)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2351)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1886)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1693)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1719)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2054)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2582)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1478)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1444)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1604)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant