Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ

17 Tháng Mười Hai 202018:00(Xem: 4143)
Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ
Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ  

Sakya Sông Lam


Định Nghĩa Chánh Niệm

Trong kinh Nikaya, Đức Phật cũng không bao giờ tán thán sự hiện hữu, bởi vì còn hiện hữu, còn tái sinh là còn Khổ: “Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít phân có mùi hôi thối. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay” (Kinh Tăng chi bộ, chương Hai pháp, XVIII, phẩm Makkhali).

Vậy tại sao còn hiện hữu là còn Khổ? Hãy Chánh tư duy để hiểu đúng sự thật về điều này với hai đối tượng là kẻ phàm phu và các bậc Thánh.

Đối với kẻ phàm phu

Kẻ phàm phu được Đức Phật định nghĩa trong kinh Pháp môn căn bản là “Ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân”, tức là những người không có văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, không hiểu biết đúng như thật về pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng.


Đối với phàm phu, khi 6 loại tế bào thần kinh (Căn) tiếp xúc với thế giới (6 Trần) phát sinh 6 loại cảm giác (Thọ) và 6 tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận các cảm giác đó thì Tà niệm khởi lên kích hoạt những thông tin vô minh Tà kiến trong kho chứa tâm thức. Tiếp theo Tà tư duy sẽ so sánh đối chiếu thông tin do Niệm kích hoạt với thông tin là cảm giác (Thọ) do tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận mà phát sinh ý thứctri kiến xác định đối tượng đó là dễ chịu (Lạc thọ), khó chịu (Khổ thọ) hay trung tính (Bất khổ bất lạc thọ), từ đó mà phát sinh thái độ yêu thích (Tham), chán ghét (Sân) hay tìm kiếm đối tượng khác dễ chịu (Si), và do Tham Sân Si như vậy mà đưa đến dính mắc ràng buộc, từ đó mà phát sinh Khổ. Lộ trình tâm sẽ diễn ra như sau:

Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Tà niệm => Tà tư duy => Tà tri kiến => Tham, Sân, Si => (Ràng buộc) => Khổ

Cụ thể hơn, khi ý thức xác định đối tượng được cảm nhận là dễ chịu, do vậy mà phát sinh thái độ yêu thích, vì yêu thích mà muốn nắm giữ đối tượng, muốn sở hữu, muốn nó bên mình mãi mãi, nhưng đối tượng đó chỉ là cảm giác, nó do duyên xúc mà phát sinh nên nó sinh lên rồi diệt đi ngay, sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu, không một ai có thể điều khiển, làm chủ sự sinh diệt của đối tượng đó... vì vậy sầu bi khổ ưu não phát sinh nơi kẻ phàm phu, khổ này gọi là Hoại khổ. Khi ý thức xác định đối tượng là khó chịu, nên phát sinh thái độ chán ghét, muốn xua đuổi, muốn tiêu diệt... vì vậy nơi nội tâm cũng phát sinh khổ, khổ này gọi là Khổ khổ. Khi ý thức xác định đối tượng là trung tính thì lập tức phát sinh thái độ tìm kiếm một đối tượng khác dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính đó, do vậy nơi nội tâm phát sinh Khổ, Khổ này gọi là Hành khổ:

- Dễ chịu => Thích (Tham) => Ràng buộc => Hoại khổ
- Khó chịu => Ghét (Sân) => Ràng buộc => Khổ khổ
- Trung tính => Tìm kiếm (Si) => Ràng buộc => Hành khổ

Như vậy, người phàm phu với 6 lộ trình tâm (6 Căn tiếp xúc 6 Trần) sẽ phát sinh 18 cái khổ nơi nội tâm, cộng với 1 cảm giác khó chịu trên thân nữa là 19 cái khổ.

* Đó là sự thật về nỗi khổ của nhân loại phàm phu nói chung xét theo lộ trình tâm, còn xét theo phương diện Tham Ái đưa đến Khổ gồm Dục ái (dục hỷ Dục lạc), Hữu ái (dục hỷ Hữu), Phi hữu ái (dục hỷ Niết-bàn) là như thế nào?

tham ái hạnh phúc nơi dục lạc (vật chấttinh thần) mà nhân loại đang chìm đắm trong khổ đau không bao giờ thoát ra được. Dù cả nhân loại đang nỗ lực để thay đổi hoàn cảnh sống từ hoàn cảnh khó chịu thành dễ chịu, nhưng dù có thay đổi để có hoàn cảnh tốt đẹp đến thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ cải thiện được 5 đến 10% nỗi Khổ thôi, còn từ 90 đến 95% nỗi Khổ nơi nội tâm do Tham Sân Si mà phát sinh thì vẫn y nguyên. Vì vậy trong các bản kinh Nikaya, Đức Phật đã nhiều lần khẳng định dục lạc thế gian là “vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn”. Ngài ví các dục như là khúc xương, như bó đuốc rơm, như đầu rắn hổ mang... Vì tham ái dục lạc mà biết bao nhiêu sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và các chất say diễn ra. Vì tham ái dục lạcxuất hiện biết bao nhiêu lừa đảo, cướp giật, bán dâm, lừa tình, buôn lậu, trốn thuế, cho vay nặng lãi. Vì tham ái dục lạc mà có biết bao nhiêu sự tranh đoạt: cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, tổ chức này tranh đoạt với tổ chức kia, quốc gia này tranh đoạt với quốc gia kia. Vì tham ái dục lạctrong lịch sử nhân loại đã xảy ra biết bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau, chưa bao giờ thế giới được một ngày yên ổn sống trong hòa bình. Vì tham ái dục lạc mà người ta sản xuất bao loại ma túy, chất gây nghiện, chất kích thích, chất tăng trưởng để đầu độc lẫn nhau... Như vậy, tham ái dục lạc đưa đến biết bao nỗi thống khổ cho loài người

tham ái hạnh phúc nơi sự sống, sự hiện hữu mà hễ khi có chuyện gì xảy ra đe dọa đến mạng sống, loài người rơi vào sợ hãi, lo lắng tột cùng. Rồi ốm đau, bệnh tật thì người ta phải lo lắng tìm thầy, chạy thuốc đến phải bán hết cả gia tài, thậm chí vay nợ để mong chữa được bệnh. Đó là Khổ. Thêm nữa, vì tham ái đối với sự sống, sự hiện hữu mà trong tiến trình chết, con người trở nên hoảng loạn, lo lắng, sợ hãi, căng thẳng đến tột độ, và do vậy mà phát sinh một trường năng lượng lớn để làm thoát ra khỏi cơ thể một dạng vật chất vi tế mang lưỡng tính sóng hạt, đó chính là Thức tái sinh hay Hóa sinh, để rồi con người phải chịu đời sống Hóa sinh vô cùng thống khổ, các loại Hóa sinh này trong kinh thường gọi là các loài chư Thiên, A-tu-la, Ngạ quỷ, Địa ngục tùy thuộc vào nghiệp đã tạo tác khi còn sống. Chính vì không hiểu được những điều đó mà nhân loại ai ai cũng đề cao sự sống, cho rằng sự sống là kỳ diệu, là nhiệm mầu, là điều mà tạo hóa ban tặng, hiểu biết đó cũng chính là biểu hiện của tâm Hữu ái.

Cũng do tâm tham ái đối với sự sống, sự hiện hữu chi phối mà biết bao nhiêu tôn giáo ra đời, và các tôn giáo cũng đều đề cao sự hiện hữu không có thân xác, chính là Phi hữu ái (còn gọi Vô sắc ái hay Dục hỷ Niết-bàn). Với mỗi tôn giáo khác nhau thì tên gọi khác nhau như cõi Niết-bàn, Thiên đường, Cực lạc, Đại ngã... nhưng nội dung thì cũng là nói đến sự hiện hữu mà không có thân xác. Chính vì tham ái đối với sự hiện hữu không thân xác mà phát sinh biết bao nhiêu loại tôn giáo với những pháp môn tu hành kỳ quái như khổ hạnh đày đọa thân xác, thậm chí có những người tử vì đạo sẵn sàng ôm bom tự sát với niềm tin sẽ được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời.

Như vậy, chính vì những hiểu biết vô minh, tà kiếncon người lúc nào cũng mong muốn sống, đề cao sự sống để rồi mãi chịu những nỗi thống khổ như trên không bao giờ chấm dứt. Đức Phật cũng đã nói rõ điều đó như sau:
“... Nhiều lần và nhiều lần,
Kẻ ngu nhập bào thai.
Nhiều lần và nhiều lần,
Lại sinh rồi lại chết.
Nhiều lần và nhiều lần,
Họ mang đến nghĩa địa.
Họ được đường giải thoát,
Không đưa đến tái sinh.
Bậc đại trí, đại tuệ,
Không sinh đi, sinh lại”.
(Kinh Tương ưng bộ I - thiên Có kệ, [07] chương VII, Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ, II. Udaya (S.i,173)

Đối với các bậc Thánh

Đối với các bậc Thánh, ta có thể xét với hai đối tượng là bậc Hữu học và bậc Vô học (A-la-hán) .


Với bậc Hữu học là những người có tu tập Bát Chánh đạo, nhưng chưa đạt được mục đích cuối cùng của Phạm hạnh thì khi 6 Căn tiếp xúc 6 Trần phát sinh 6 Thọ và 6 Tưởng, có Khổ hay không còn tùy thuộc vào Niệm, vì “Niệm là người đánh xe” (Kinh Tương ưng bộ, kinh Cỗ xe thù thắng). Khi có Chánh niệm, lộ trình tâm Bát Chánh đạo siêu thế sẽ được khởi lên, vị ấy kinh nghiệm được trạng thái Không-có-khổ, gọi là Khổ diệt hay Niết-bàn. Lộ trình tâm sẽ diễn ra như sau:

- Khi tu Chỉ, lộ trình tâm dừng lại ở cái biết trực tiếp (Tỉnh giác) thì Khổ được nhiếp phục:
Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Chánh niệm => Chánh tinh tấn => Chánh định (Tỉnh giác) => Khổ diệt
- Còn khi tu Quán, lộ trình tâm sẽ diễn tiến tiếp theo là:
Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Chánh niệm => Chánh tinh tấn => Chánh định (Tỉnh giác)  => Chánh tư duy => Chánh tri kiến = Khổ diệt

Nhưng nếu khi không có Chánh niệm, tức là tà niệm thì lộ trình tâm vẫn như người phàm phu, vẫn xuất hiện 19 cái Khổ. Vì vậy, sự chấm dứt Khổ của vị ấy phụ thuộc vào thời gianChánh niệm, ví như trong một ngày (trừ lúc ngủ say không mộng mị), vị ấy an trú Chánh niệm được 50% thời gian thì 50% thời gian đó không có Khổ, còn 50% thời gian vẫn Khổ như người phàm phu. Và trong tiến trình chết, nếu vị ấy chưa đoạn tận được sự tái sinh thì vẫn phải chịu nỗi Khổ của đời sống Hóa sinh, tùy mức độ tu tập khi còn sống mà khi đời sống Hóa sinh có mức độ Khổ tương tự của mỗi vị cũng khác nhau.

Còn đối với bậc Vô học, là vị A-la-hán, là người đã đoạn tận Tham Sân Si, đoạn tận mọi kiết sử, đoạn tận sự tái sinh trong tương lai thì sao? Một vị Vô học như vậy, với 6 lộ trình tâm sẽ không còn phát sinh 18 cái Khổ nơi nội tâm, vì nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si đã được đoạn tận, nhưng vẫn còn một cái Khổ là Khổ thọ trên thân do yếu tố ngoại cảnh mang lại. Ví như khi vị ấy đi dưới trời nắng thì trên thân vẫn có cảm giác nóng, dẫm phải gai hay vật nhọn khiến đứt chân thì vị ấy vẫn có cảm giác đau, hay khi ốm bệnh thì những Khổ thọ trên thân vị ấy vẫn cảm nhận. Đó chính là những nỗi Khổ còn dư sót với vị A-la-hán cho nên trong kinh gọi đó là Hữu dư Niết-bàn. Còn trong tiến trình chết, vị ấy do đã đoạn tận Hữu ái (Hữu kiết sử), nên không còn lo lắng sợ hãihoàn toàn bình thản đón nhận cái chết, không còn phát sinh Thức tái sinh thành Hóa sinh nữa, khi đó cũng chính là sự Diệt độ của vị A-la-hán, sẽ không còn hiện hữu ở bất cứ đâu dưới bất kỳ hình thức nào. Lúc này thì những cái Khổ còn dư sót trên thân của vị ấy đã được đoạn tận, nên gọi là Vô dư Niết-bàn, đó là cái chết cuối cùng, là mục đích cuối cùng của sự tu học, là “vô thượng an ổn khỏi mọi khổ ách”.

Ngay sau khi giác ngộ, Đức Phật đã nhận ra do Vô minhTham ái có mặt, do Tham ái mà đưa đến sự tái sinh và phải chịu đựng những nỗi khổ trong luân hồi sinh tử, và Ngài đã tán thán sự đoạn tận tái sinh, đoạn tận hiện hữu:

“Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sinh”.
“Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Đòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong”.
(Kinh Pháp cú 153 - 154)

Với các bậc giác ngộ, thì ai cũng hiểu rõ rằng còn sinh y, còn hiện hữu là còn Khổ, chấm dứt sự sinh y mới chấm dứt được Khổ:
“Người sầu vì sinh y,
Không sinh y, không sầu”.
(Kinh Tương ưng bộ I - thiên Có kệ, [04] ,hương IV - Tương ưng Ác ma)

Như vậy, toàn bộ giáo phápĐức Thế Tôn đã chứng ngộthuyết giảng đều hướng đến mục đích cuối cùng là sự chấm dứt Khổ, chấm dứt sự luân hồi tái sinh, chấm dứt hiện hữu, đoạn tận sự nhập thai trong tương lai:

 “Như Lai đã đoạn tận khả năng nhập thai tái sinh trong tương lai, đã đoạn tận, đã chặt đứt từ gốc rễ, đã làm cho như thân cây ta-la, đã làm cho không thể tái sinh, đã làm cho không thể sinh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: Sa-môn Gotama chủ trương không nhập thai”.

(Kinh Tăng chi bộ, chương Tám pháp, II, phẩm Lớn, (I) (11) Veranjà)
https://giacngo.vn/phathoc/triethoc/2020/08/23/3A42D2/

Sakya Sông Lam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1300)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1582)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2081)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1837)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1203)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1383)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1378)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1663)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1440)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1308)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1454)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1386)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1701)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1406)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1357)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1370)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1448)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1630)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1527)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1484)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1338)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1436)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1144)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1893)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1324)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1491)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1493)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1665)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1545)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 1985)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1527)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1726)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1930)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2101)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1576)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2554)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1664)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1843)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1791)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1545)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2296)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1729)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1792)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1660)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2035)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2017)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2166)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1663)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 1979)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant