Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ

17 Tháng Mười Hai 202018:00(Xem: 4134)
Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ
Còn Hiện Hữu Là Còn Khổ  

Sakya Sông Lam


Định Nghĩa Chánh Niệm

Trong kinh Nikaya, Đức Phật cũng không bao giờ tán thán sự hiện hữu, bởi vì còn hiện hữu, còn tái sinh là còn Khổ: “Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít phân có mùi hôi thối. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay” (Kinh Tăng chi bộ, chương Hai pháp, XVIII, phẩm Makkhali).

Vậy tại sao còn hiện hữu là còn Khổ? Hãy Chánh tư duy để hiểu đúng sự thật về điều này với hai đối tượng là kẻ phàm phu và các bậc Thánh.

Đối với kẻ phàm phu

Kẻ phàm phu được Đức Phật định nghĩa trong kinh Pháp môn căn bản là “Ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân”, tức là những người không có văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, không hiểu biết đúng như thật về pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng.


Đối với phàm phu, khi 6 loại tế bào thần kinh (Căn) tiếp xúc với thế giới (6 Trần) phát sinh 6 loại cảm giác (Thọ) và 6 tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận các cảm giác đó thì Tà niệm khởi lên kích hoạt những thông tin vô minh Tà kiến trong kho chứa tâm thức. Tiếp theo Tà tư duy sẽ so sánh đối chiếu thông tin do Niệm kích hoạt với thông tin là cảm giác (Thọ) do tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận mà phát sinh ý thứctri kiến xác định đối tượng đó là dễ chịu (Lạc thọ), khó chịu (Khổ thọ) hay trung tính (Bất khổ bất lạc thọ), từ đó mà phát sinh thái độ yêu thích (Tham), chán ghét (Sân) hay tìm kiếm đối tượng khác dễ chịu (Si), và do Tham Sân Si như vậy mà đưa đến dính mắc ràng buộc, từ đó mà phát sinh Khổ. Lộ trình tâm sẽ diễn ra như sau:

Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Tà niệm => Tà tư duy => Tà tri kiến => Tham, Sân, Si => (Ràng buộc) => Khổ

Cụ thể hơn, khi ý thức xác định đối tượng được cảm nhận là dễ chịu, do vậy mà phát sinh thái độ yêu thích, vì yêu thích mà muốn nắm giữ đối tượng, muốn sở hữu, muốn nó bên mình mãi mãi, nhưng đối tượng đó chỉ là cảm giác, nó do duyên xúc mà phát sinh nên nó sinh lên rồi diệt đi ngay, sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu, không một ai có thể điều khiển, làm chủ sự sinh diệt của đối tượng đó... vì vậy sầu bi khổ ưu não phát sinh nơi kẻ phàm phu, khổ này gọi là Hoại khổ. Khi ý thức xác định đối tượng là khó chịu, nên phát sinh thái độ chán ghét, muốn xua đuổi, muốn tiêu diệt... vì vậy nơi nội tâm cũng phát sinh khổ, khổ này gọi là Khổ khổ. Khi ý thức xác định đối tượng là trung tính thì lập tức phát sinh thái độ tìm kiếm một đối tượng khác dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính đó, do vậy nơi nội tâm phát sinh Khổ, Khổ này gọi là Hành khổ:

- Dễ chịu => Thích (Tham) => Ràng buộc => Hoại khổ
- Khó chịu => Ghét (Sân) => Ràng buộc => Khổ khổ
- Trung tính => Tìm kiếm (Si) => Ràng buộc => Hành khổ

Như vậy, người phàm phu với 6 lộ trình tâm (6 Căn tiếp xúc 6 Trần) sẽ phát sinh 18 cái khổ nơi nội tâm, cộng với 1 cảm giác khó chịu trên thân nữa là 19 cái khổ.

* Đó là sự thật về nỗi khổ của nhân loại phàm phu nói chung xét theo lộ trình tâm, còn xét theo phương diện Tham Ái đưa đến Khổ gồm Dục ái (dục hỷ Dục lạc), Hữu ái (dục hỷ Hữu), Phi hữu ái (dục hỷ Niết-bàn) là như thế nào?

tham ái hạnh phúc nơi dục lạc (vật chấttinh thần) mà nhân loại đang chìm đắm trong khổ đau không bao giờ thoát ra được. Dù cả nhân loại đang nỗ lực để thay đổi hoàn cảnh sống từ hoàn cảnh khó chịu thành dễ chịu, nhưng dù có thay đổi để có hoàn cảnh tốt đẹp đến thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ cải thiện được 5 đến 10% nỗi Khổ thôi, còn từ 90 đến 95% nỗi Khổ nơi nội tâm do Tham Sân Si mà phát sinh thì vẫn y nguyên. Vì vậy trong các bản kinh Nikaya, Đức Phật đã nhiều lần khẳng định dục lạc thế gian là “vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn”. Ngài ví các dục như là khúc xương, như bó đuốc rơm, như đầu rắn hổ mang... Vì tham ái dục lạc mà biết bao nhiêu sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và các chất say diễn ra. Vì tham ái dục lạcxuất hiện biết bao nhiêu lừa đảo, cướp giật, bán dâm, lừa tình, buôn lậu, trốn thuế, cho vay nặng lãi. Vì tham ái dục lạc mà có biết bao nhiêu sự tranh đoạt: cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, tổ chức này tranh đoạt với tổ chức kia, quốc gia này tranh đoạt với quốc gia kia. Vì tham ái dục lạctrong lịch sử nhân loại đã xảy ra biết bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau, chưa bao giờ thế giới được một ngày yên ổn sống trong hòa bình. Vì tham ái dục lạc mà người ta sản xuất bao loại ma túy, chất gây nghiện, chất kích thích, chất tăng trưởng để đầu độc lẫn nhau... Như vậy, tham ái dục lạc đưa đến biết bao nỗi thống khổ cho loài người

tham ái hạnh phúc nơi sự sống, sự hiện hữu mà hễ khi có chuyện gì xảy ra đe dọa đến mạng sống, loài người rơi vào sợ hãi, lo lắng tột cùng. Rồi ốm đau, bệnh tật thì người ta phải lo lắng tìm thầy, chạy thuốc đến phải bán hết cả gia tài, thậm chí vay nợ để mong chữa được bệnh. Đó là Khổ. Thêm nữa, vì tham ái đối với sự sống, sự hiện hữu mà trong tiến trình chết, con người trở nên hoảng loạn, lo lắng, sợ hãi, căng thẳng đến tột độ, và do vậy mà phát sinh một trường năng lượng lớn để làm thoát ra khỏi cơ thể một dạng vật chất vi tế mang lưỡng tính sóng hạt, đó chính là Thức tái sinh hay Hóa sinh, để rồi con người phải chịu đời sống Hóa sinh vô cùng thống khổ, các loại Hóa sinh này trong kinh thường gọi là các loài chư Thiên, A-tu-la, Ngạ quỷ, Địa ngục tùy thuộc vào nghiệp đã tạo tác khi còn sống. Chính vì không hiểu được những điều đó mà nhân loại ai ai cũng đề cao sự sống, cho rằng sự sống là kỳ diệu, là nhiệm mầu, là điều mà tạo hóa ban tặng, hiểu biết đó cũng chính là biểu hiện của tâm Hữu ái.

Cũng do tâm tham ái đối với sự sống, sự hiện hữu chi phối mà biết bao nhiêu tôn giáo ra đời, và các tôn giáo cũng đều đề cao sự hiện hữu không có thân xác, chính là Phi hữu ái (còn gọi Vô sắc ái hay Dục hỷ Niết-bàn). Với mỗi tôn giáo khác nhau thì tên gọi khác nhau như cõi Niết-bàn, Thiên đường, Cực lạc, Đại ngã... nhưng nội dung thì cũng là nói đến sự hiện hữu mà không có thân xác. Chính vì tham ái đối với sự hiện hữu không thân xác mà phát sinh biết bao nhiêu loại tôn giáo với những pháp môn tu hành kỳ quái như khổ hạnh đày đọa thân xác, thậm chí có những người tử vì đạo sẵn sàng ôm bom tự sát với niềm tin sẽ được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời.

Như vậy, chính vì những hiểu biết vô minh, tà kiếncon người lúc nào cũng mong muốn sống, đề cao sự sống để rồi mãi chịu những nỗi thống khổ như trên không bao giờ chấm dứt. Đức Phật cũng đã nói rõ điều đó như sau:
“... Nhiều lần và nhiều lần,
Kẻ ngu nhập bào thai.
Nhiều lần và nhiều lần,
Lại sinh rồi lại chết.
Nhiều lần và nhiều lần,
Họ mang đến nghĩa địa.
Họ được đường giải thoát,
Không đưa đến tái sinh.
Bậc đại trí, đại tuệ,
Không sinh đi, sinh lại”.
(Kinh Tương ưng bộ I - thiên Có kệ, [07] chương VII, Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ, II. Udaya (S.i,173)

Đối với các bậc Thánh

Đối với các bậc Thánh, ta có thể xét với hai đối tượng là bậc Hữu học và bậc Vô học (A-la-hán) .


Với bậc Hữu học là những người có tu tập Bát Chánh đạo, nhưng chưa đạt được mục đích cuối cùng của Phạm hạnh thì khi 6 Căn tiếp xúc 6 Trần phát sinh 6 Thọ và 6 Tưởng, có Khổ hay không còn tùy thuộc vào Niệm, vì “Niệm là người đánh xe” (Kinh Tương ưng bộ, kinh Cỗ xe thù thắng). Khi có Chánh niệm, lộ trình tâm Bát Chánh đạo siêu thế sẽ được khởi lên, vị ấy kinh nghiệm được trạng thái Không-có-khổ, gọi là Khổ diệt hay Niết-bàn. Lộ trình tâm sẽ diễn ra như sau:

- Khi tu Chỉ, lộ trình tâm dừng lại ở cái biết trực tiếp (Tỉnh giác) thì Khổ được nhiếp phục:
Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Chánh niệm => Chánh tinh tấn => Chánh định (Tỉnh giác) => Khổ diệt
- Còn khi tu Quán, lộ trình tâm sẽ diễn tiến tiếp theo là:
Căn + Trần => Thọ - Tưởng => Chánh niệm => Chánh tinh tấn => Chánh định (Tỉnh giác)  => Chánh tư duy => Chánh tri kiến = Khổ diệt

Nhưng nếu khi không có Chánh niệm, tức là tà niệm thì lộ trình tâm vẫn như người phàm phu, vẫn xuất hiện 19 cái Khổ. Vì vậy, sự chấm dứt Khổ của vị ấy phụ thuộc vào thời gianChánh niệm, ví như trong một ngày (trừ lúc ngủ say không mộng mị), vị ấy an trú Chánh niệm được 50% thời gian thì 50% thời gian đó không có Khổ, còn 50% thời gian vẫn Khổ như người phàm phu. Và trong tiến trình chết, nếu vị ấy chưa đoạn tận được sự tái sinh thì vẫn phải chịu nỗi Khổ của đời sống Hóa sinh, tùy mức độ tu tập khi còn sống mà khi đời sống Hóa sinh có mức độ Khổ tương tự của mỗi vị cũng khác nhau.

Còn đối với bậc Vô học, là vị A-la-hán, là người đã đoạn tận Tham Sân Si, đoạn tận mọi kiết sử, đoạn tận sự tái sinh trong tương lai thì sao? Một vị Vô học như vậy, với 6 lộ trình tâm sẽ không còn phát sinh 18 cái Khổ nơi nội tâm, vì nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si đã được đoạn tận, nhưng vẫn còn một cái Khổ là Khổ thọ trên thân do yếu tố ngoại cảnh mang lại. Ví như khi vị ấy đi dưới trời nắng thì trên thân vẫn có cảm giác nóng, dẫm phải gai hay vật nhọn khiến đứt chân thì vị ấy vẫn có cảm giác đau, hay khi ốm bệnh thì những Khổ thọ trên thân vị ấy vẫn cảm nhận. Đó chính là những nỗi Khổ còn dư sót với vị A-la-hán cho nên trong kinh gọi đó là Hữu dư Niết-bàn. Còn trong tiến trình chết, vị ấy do đã đoạn tận Hữu ái (Hữu kiết sử), nên không còn lo lắng sợ hãihoàn toàn bình thản đón nhận cái chết, không còn phát sinh Thức tái sinh thành Hóa sinh nữa, khi đó cũng chính là sự Diệt độ của vị A-la-hán, sẽ không còn hiện hữu ở bất cứ đâu dưới bất kỳ hình thức nào. Lúc này thì những cái Khổ còn dư sót trên thân của vị ấy đã được đoạn tận, nên gọi là Vô dư Niết-bàn, đó là cái chết cuối cùng, là mục đích cuối cùng của sự tu học, là “vô thượng an ổn khỏi mọi khổ ách”.

Ngay sau khi giác ngộ, Đức Phật đã nhận ra do Vô minhTham ái có mặt, do Tham ái mà đưa đến sự tái sinh và phải chịu đựng những nỗi khổ trong luân hồi sinh tử, và Ngài đã tán thán sự đoạn tận tái sinh, đoạn tận hiện hữu:

“Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sinh”.
“Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Đòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong”.
(Kinh Pháp cú 153 - 154)

Với các bậc giác ngộ, thì ai cũng hiểu rõ rằng còn sinh y, còn hiện hữu là còn Khổ, chấm dứt sự sinh y mới chấm dứt được Khổ:
“Người sầu vì sinh y,
Không sinh y, không sầu”.
(Kinh Tương ưng bộ I - thiên Có kệ, [04] ,hương IV - Tương ưng Ác ma)

Như vậy, toàn bộ giáo phápĐức Thế Tôn đã chứng ngộthuyết giảng đều hướng đến mục đích cuối cùng là sự chấm dứt Khổ, chấm dứt sự luân hồi tái sinh, chấm dứt hiện hữu, đoạn tận sự nhập thai trong tương lai:

 “Như Lai đã đoạn tận khả năng nhập thai tái sinh trong tương lai, đã đoạn tận, đã chặt đứt từ gốc rễ, đã làm cho như thân cây ta-la, đã làm cho không thể tái sinh, đã làm cho không thể sinh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: Sa-môn Gotama chủ trương không nhập thai”.

(Kinh Tăng chi bộ, chương Tám pháp, II, phẩm Lớn, (I) (11) Veranjà)
https://giacngo.vn/phathoc/triethoc/2020/08/23/3A42D2/

Sakya Sông Lam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 92)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 113)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 146)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 209)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 190)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 214)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 204)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 245)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 228)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 191)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 151)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 178)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 200)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 282)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 286)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 306)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 270)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 322)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 341)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 585)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 566)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 838)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 435)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 672)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 483)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 455)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 374)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 497)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 452)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 641)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 432)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 831)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 559)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 568)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 929)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 668)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 562)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 847)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 533)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 639)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 576)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 617)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 638)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 632)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 532)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 698)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1011)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1183)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 911)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1230)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant