Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Chất Bình Đẳng Tuyệt Đối Của Đạo Phật

21 Tháng Mười Hai 202018:31(Xem: 4227)
Tính Chất Bình Đẳng Tuyệt Đối Của Đạo Phật

Tính Chất Bình Đẳng Tuyệt Đối Của Đạo Phật

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

 
Làm Thế Nào

Khi nói đến đạo Phật thì hầu hết mọi người đều nghĩ đến tính từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha… nhưng đạo Phật còn có một tính  chất rất tuyệt vời khác mà ít người nhắc tới đó là tính BÌNH ĐẲNG TUYỆT ĐỐI.

Đúng vậy, tính chất bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật là một nét rất dăc thù chỉ có đối với đạo Phật mà không có bất kỳ một tôn giáo nào khác, bất kỳ một tổ chức đoàn thể  nào khác hay bất kỳ một quốc gia nào có được!

Tính chất bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật là một đề tài đã được đề cập đến qua các luận giải, qua các bài giảng của  Chư tôn đức. Ở đây chỉ xin trình bày tính chất  này qua  sự cảm nhận và nhãn quan của một cư sĩ bình thường. Vấn đề  dù không mới nhưng hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn tính chất ưu việt này của đạo Phật. Bài viết này  trình bày tính bình đẳng tuyệt đối  của đạo Phật qua ba khía cạnh: Bình đẳng tuyệt đối giữa chúng sanhchúng sanh, bình đẳng tuyệt đối trong giáo đoàn của đức Phật và  bình đẳng tuyệt đối giữa đức Phậtchúng sanh.

  1. 1.      Tình bình đẳng tuyệt đối giữa chúng sanhchúng sanh.

Đức Phật ra đời ở Ấn Độ cách đây 26 thế kỷ, vào thời đó Ấn Độ là một đất nước mà sự phân chia giai cấp rất nặng nề. Ở đó người ta chia người dân ra bốn giai cấp rõ rệt:

-Giai cấp Bà-la-môn: Bao gồm giới tăng lữ thống trị về mặt tinh thần, phụ trách về lễ nghi, tế tự. Họ cho rằng mình được sanh ra ở miệng Phạm Thiên nên có địa vị tối cao trong xã hội, vì thế họ có quyền hành cao nhất và được hưởng nhiều quyền lợi nhất.

-Giai cấp Sát-đế lỵ: Là giai cấp vua chúa, quan lại có quyền lực  và quyền lợi rất lớn, họ cho mình được sinh ra từ cánh tay Phạm Thiên,  nắm quyền cai trị dân chúng,.

-Giai cấp Phệ-xá: Được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên. Đây là giai cấp của những thợ thuyền, thương gia, nông dân. Tuy họ không có quyền hành gì lớn nhưng có tài sản và một chút địa vị trong xã hộiđảm đương nền kinh tế trong nước.

-Giai cấp Thủ-đà-la : Được cho là sinh ra từ gót chân Phạm Thiên. Đây là giai cấp thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ, họ sinh ra là để làm nô lệ cho các giai cấp trên và được mặc nhiên xem như giai cấp hạ tiện, bần cùng nhất, họ không có được quyền sơ đẳng của con ngườibản thân họ chỉ là vật sở hữu của các  giai cấp khác.

Trật tự xã hội qua bao đời đều đã được mặc dịnh như vậy, không ai dám thay đổi cái trật tự đó.  Nhưng từ khi Đức Phật thành đạo trở về,  ngài đã tuyên bố rằng tất cả chúng sanh đều bình đẳng tuyệt dối vì ngài cho rằng tất cả chúng sanh đều có phật tánh, thế nên bất kỳ ai cũng có khả năng thành Phật không phân biệt xuất thân từ giai cấp nào,  giàu hay nghèo, quyền quý hay tiện nhân đều như nhau. Ngài cũng có một tuyên ngôn về tính bình đẳng tuyệt dối đó là: “ Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Chính giáo lý của đức Phật tuyên thuyết về tình bình đẳng tuyệt đối giữa tất cả chúng sanh với nhau nên những người thuộc giai cấp Bà-la-môn và Sát-đế lỵ cảm thấy mình bị xúc phạmđức Phật đã đặt họ ngang hàng với giới tiện dân. Quyền lợiđịa vị xã hội của họ đã được duy trì từ bao đời rồi, mà nay bị đức Phật phủ nhận, chẳng những thế mà Phật còn đưa hàng tiện dân mạt hạng lên ngang hàng với mình nữa chứ! Vì thế họ rất thù ghét đức Phật và tìm mọi cách để chống đối, phá hoại sự hoằng hóa tôn giáo của ngài.

  1. 2.      Tính bình đẳng tuyệt đối trong giáo đoàn của đức Phật:

Trong giáo đoàn thời đức Phật tại thế tất cả các đệ tử của ngài đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp xuất thân cũng như quyền lợi hưởng thụ. Họ sống với nhau trong tinh thần lục hòa cộng trụ, cùng nhau tu học theo lời dạy của Phật, đức Phật sẽ quán căn cơ của từng đệ tử để chỉ dạy phương pháp tu hành phù hợp mà không phân biệt trình độ cao thấp, không phân biệt kẻ trí người ngu. Đức Phật đã kết nạp vào giáo đoàn của ngài đủ mọi thành phần xã hội, từ những hoàng tử cao quý như ngài A-nan, Nan-đà, La-hầu-la, cho đến người thuộc giai cấp hạ tiện như ngài Ưu-bà-ly, một người Chiên-đà-la làm nghề gánh phân, hoặc xuất thân là tướng cướp như Ương-quật-ma-la…Về nữ giới thì từ người quyền quý như hoàng hậu Maha Bà-xà-bà-đề cùng các vương phi cho đến người xuất thân là kỹ nữ như nàng Liên Hoa Sắc…Tất cả các đệ tử của đức Phật đều nổ lực tu hành trong môi trường bình đẳng tuyệt đối và quên đi nơi xuất thân của mình. Việc tu hành được chứng quả nhanh hay chậm, tùy thuộc vào sự nổ lực của từng người chứ không phải do giai cấp xuất thân, trình độ hoặc là ngu hay trí. Điển hình như ngài A-nan là một hòang tử, xuất gia đã mấy mươi năm, có thời gian dài  làm thị giả của đức Phật, lại được xưng tụngđa văn đệ nhất,  thế mà tu hành mấy mươi năm cho đến khi đức Phật nhập diệt ngài cũng chưa chứng đạo, phải đến đêm trước khi kết tập kinh tạng lần thứ nhất ngài mới chứng quả A-la-hán. Trong khi đó người Chiên-đà-la làm nghề gánh phân một chữ bẻ đôi cũng không biết, thế mà khi được đức Phật thu nạp đã nổ lực tu tập sau một tuần đã chứng quả A-la-hán.

  1. 3.      Tinh bình đẳng tuyệt đối giữa Đức Phậtchúng sanh.

Trước hết xét về giáo lý thì hầu hết các tôn giáo trên hành tinh dù là nhất thần hay đa thần cũng đều cho rằng giáo chủ là vị có quyền uy tối thượng, toàn năng, toàn trí, đứng lên trên tất cả mọi loài. Giáo chủ một tôn giáo là vị nắm quyền phán xét, có năng lực cứu rỗi những tín đồ ngoan đạo thực hành đúng lời dạy của mình và có quyền kết tội những ai không nghe và làm theo lời dạy của mình, sau khi chết đi được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục cũng đều do thượng đế phán xét. Phật giáo thì không thế, chưa bao giờ đức Phật nhận mình là đấng quyền năng tối thượng mà chỉ khiêm tốn nhận mình là  một đạo sư, tức là người chỉ đường và khuyên tín đồ hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, ngài cũng chỉ nhận mình là một  người thầy thuốc biết bệnh cho thuốc, còn uống  thuốc hay không là quyền của người bệnh, cho nên nếu người bệnh không lành thì đó không phải  lỗi của thầy thuốc. Vì thế cho nên đức Phật được xem là có công năng cứu độ chứ không có công năng cứu rỗi!. Đức Phật quan niệm tất cả chúng sanh đều có phật tánh, thế cho nên ngài đã tuyên một thông điệp về tính bình đẳng tuyệt đối giữa ngài và chúng sanh là: TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH, CHÚNG SINH LÀ PHẬT SẼ THÀNH. Đây là một lời tuyên bố về tình bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật mà trên hành tinh này chưa có một đấng giáo chủ nào tuyên bố như vậy cả, chưa có một vị giáo chủ nào nâng tín đồ lên ngang hàng với mình như đức Phật cả.  Hầu hết các tôn giáo khác, giáo chủ là bậc tối thượng cho nên  đứng lên trên tất cả, giáo chủ là bậc trên, tín đồ là bậc dưới, giáo chủ  là bậc tối thượng nên có quyền phán xét và cứu rỗi mà tín đồ phải có bổn phận tuân thủ, đó là một “chân lý bất biến”. Đạo Phật  không có khái niệm công, tội mà chỉ có nhân quả, nghiệp báo, chúng sanh gieo gì gặt đó, làm gì thì chịu trách nhiệm với hành vi mình tạo tác và nhận quả báo lành hay dữ cũng do chính hành vi mình  tạo từ thân, khẩu, ý. Đức Phật không can thiệp vào luật nhân quả, nghiệp báo mà chỉ tìm cách giáo hóa cho chúng sanh tránh điều ác,  làm điều thiện để được hưởng quả báo lành cho chính bản thân họ mà thôi. Đức Phật cũng không bắt tín đồ của mình phải tuân theo ý của mình nếu không thì bắt tội, ngược lại đức Phật khuyên tín đồ phải có chánh kiến một cách độc lập sau khi đã suy xét một cách thấu đáo, chứ đừng vội tin bất kỳ điều gì, cho dù lời  nói đó là của vị giáo chủ của mình đi nữa.!

Trong Tăng Chi Bộ Kinh đức Phật dạy có 10 điều chớ vội tin:

1-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

2-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

3-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

4-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.

5-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.

6-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

7-Chớ vội tin một điều gì khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

8-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.

9-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được sức mạnhquyền uy ủng hộ.

10-Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên.

Như vậy rõ ràng chưa bao giờ đức Phật áp đặt quan điểm của mình lên tín đồ, mà ngài để cho tín đồ của mình tự do chọn lựa sau khi suy xét kỹ càng, ngài không bao giờ bắt tín đồ phải nghe lời mình một cách mê tín cả.

Như vậy chúng ta thấy một vị giáo chủ  một tôn giáo mà đặt mình ngang hàng với chúng sanhcho phép tín đồ đặt niềm tin vào giáo lý của mình sau khi đã suy tính một cách chín chắn thì trên hành tinh này duy nhất chỉ có đức Phật và chỉ có đạo Phật mới có quan niệm bình đẳng một cách tuyệt đối như thế!

Tính chất bình đẳng tuyệt đối  là một nét tinh hoa trong đạo Phật, mà chúng ta không tìm thấy ở bất kỳ tôn giáo nào hoặc bất kỳ một quốc gia, một đoàn thể nào khác. Từ ngàn xưa cho tới ngàn sau có lẻ cũng chỉ có duy nhất trong đạo PHẬT.

                                                                              

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2065)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2212)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1711)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2021)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1738)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1722)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1894)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1905)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1558)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2070)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2386)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1715)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1717)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1674)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2124)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1949)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2087)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2246)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1758)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1669)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2402)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2119)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2067)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1869)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2219)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1794)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1916)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2151)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1681)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1936)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1932)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2150)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1926)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1766)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1756)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1867)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2157)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1710)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1683)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2248)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1774)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2352)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant