Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật TánhTâm Từ

29 Tháng Mười Hai 202018:59(Xem: 3609)
Phật Tánh Là Tâm Từ

Phật TánhTâm Từ

Nguyễn Thế Đăng

Chết Và Tái Sinh



Thành Phật
thành tựu đức đại từ đại bi do đã khai mở hoàn toàn Phật tánh:

“Vì xưa kia, trong tám mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật. Thưở ấy ta cũng quyết định rằng mình có Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đức đại từ đại bi” (phẩm Như Lai Tánh, phẩm Tà Chánh, Kinh Đại Bát Niết Bàn).

“Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại từ đại bi, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, Phật tánh gọi là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Bồ tát thì tu cả Bốn tâm vô lượng:

“Thiện nam tử! Đại Bồ tát trụ ở Sơ địa gọi là đại từ. Vì sao thế? Kẻ xấu ác cùng cực gọi là nhất xiển đề. Bồ tát trụ ở Sơ địa lúc tu Đại từ thì với nhất xiển đề tâm khôngsai biệt, chẳng thấy lỗi của họ, nên chẳng sanh sân. Vì nghĩa ấy nên được gọi là đại từ. Thiện nam tử! Vì trừ những điều không lợi ích cho chúng sanh, đây gọi là đại từ.

Muốn cho chúng sanh vô lượng lợi lạc, đây gọi là đại bi.

Với các chúng sanh tâm sanh hoan hỷ, đây là đại hỷ.

Không ôm giữ cái gì, đây gọi là đại xả. Nếu chẳng thấy cái tôi, tướng các pháp, thân mình, thấy tất cả pháp bình đẳng không có hai, đấy gọi là đại xả. Tự bỏ cái vui của mình mà đem cho người khác, đây gọi là đại xả.

Thiện nam tử! Chỉ bốn tâm vô lượng có thể làm cho Bồ tát tăng trưởng đầy đủ Sáu ba la mật, còn các hạnh khác không thể làm được.

Thiện nam tử! Đại Bồ tát trước được bốn tâm vô lượng thế gian, rồi sau mới phát tâm Bồ đề vô thượng, sau đó mới được tâm vô lượng xuất thế gian. Thiện nam tử! Nhân tâm vô lượng thế gian mà được tâm vô lượng xuất thế gian, do vì nghĩa ấy nên gọi là đại vô lượng”. (phẩm Phạm Hạnh).

Bồ tátSơ Hoan Hỷ địa lần đầu tiên tương ưngthể nhập Pháp thân Phật tánh và Bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả cũng hòa nhập với Pháp thân Phật tánh để thành “tâm vô lượng xuất thế gian”. Từ đây, càng mở rộng bốn tâm vô lượng thì càng “dứt trừ được các phiền não” (phẩm Phạm Hạnh), và càng dứt trừ vô minh phiền não thì Pháp thân Phật tánh càng hiển lộ. Bốn tâm vô lượng khiến Bồ tát thể nhập sâu hơn vào Pháp thân Phật tánh vì chúng làm “tăng trưởng đầy đủ Sáu ba la mật, còn các hạnh khác không thể làm được”.

Đặc biệt phẩm Phạm Hạnh dành để nói nhiều về tâm Từ, và cách tu tập về tâm từ.

“Thiện nam tử! Thiện căn của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, chư Phật đều lấy tâm từ làm căn bản.

Thiện nam tử! Đại Bồ tát tu tập tâm từ có thể sanh vô lượng thiện căn như vậy. Đó là: quán bất tịnh, quán hơi thở ra vào, vô thường, bốn niệm xứ, bảy phương tiện, ba quán xứ, mười hai nhân duyên, vô ngã. Pháp noãn, pháp đảnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất, Kiến đạo, Tu đạo, Bốn chánh cần, Bốn như ý, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần, Bốn thiền, Bốn vô lượng tâm, Tám giải thoát, Tám thắng xứ, Mười nhất thiết nhập, Ba tam muội Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tranh tam muội, Tha tâm trí, các thần thông, trí biết bản tế, trí Thanh Văn, trí Duyên Giác, trí Phật.

Thiện nam tử! Những pháp như vậy đều lấy tâm từ làm căn bản. Vì nghĩa ấy nên từ là chân thật chẳng phải là hư vọng.

Nếu có người hỏi cái gì là căn bản của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ.

Thiện nam tử! Người có thể thực hành pháp lành gọi là thật tư duy, người thật tư duy gọi là có tâm từ. Tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ tức là Đại thừa, Đại thừa tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ tức là đạo Bồ đề, đạo Bồ đề tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ có thể vì tất cả chúng sanh mà làm cha mẹ, cha mẹtâm từ, tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từcảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật chính là tâm từ. Nên biết tâm từ chính là Như Lai.

Thiện nam tử! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh. Phật tánh này từ lâu bị phiền não che đậy khiến chúng sanh không thể nhìn thấy. Phật tánh tức là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai” (phẩm Phạm Hạnh).

Như vậy, tu hành tâm từtu hành Phật tánh, và tu hành Phật tánhtu hành tâm từ. Cụ thể tâm từ dứt trừ vô minh phiền não để hiển lộ Phật tánh, và Phật tánh tức là tâm từ.

Chúng ta trích một ít đoạn về thực hành tâm từ khi bố thí:

“Thiện nam tử! Lúc làm việc bố thí, Bồ tát đối với chúng sanh, lòng từ bình đẳng, tưởng như con mình. Lại lúc làm bố thí, đối với chúng sanh Bồ tát khởi lòng bi mẫn như cha mẹ chăm sóc đứa con đang đau ốm. Lúc làm bố thí, lòng Bồ tát vui mừng như thấy con được khỏi bệnh. Sau khi bố thí, lòng Bồ tát buông xả như cha mẹ thấy con đã lớn có thể tự sanh sống.

Đại Bồ tát này ở trong tâm từ, lúc bố thí thức ăn thường nguyện như vầy: Nay những thức ăn của tôi đều cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sanh được thức ăn đại trí huệ, chuyên cần tinh tấn hướng đến Đại thừa vô thượng. Nguyện các chúng sanh được món ăn hoan hỷ của pháp, chẳng cầu món ăn ái nhiễm. Nguyện các chúng sanh đều được món ăn Bát nhã ba la mật, đều được nắm giữ đầy đủ các thiện căn vô ngại tăng trưởng. Nguyện các chúng sanh ngộ hiểu Không tướng, đắc thân vô ngại giống như hư không. Nguyện các chúng sanh thường làm người lãnh thọ, thương xót tất cả mà làm ruộng phước cho mọi loài”.

Trong khi bố thí thức ăn, nghĩ đến tất cả chúng sanh, đó là tâm từ bi. Từ bi ấy không rời trí huệ Bát nhã soi thấy Không tướng. Chỉ trong một việc bố thí, Bồ tát có đủ từ bitrí huệ. Và làm như vậy, nghĩa là “ở trong tâm từ” mà làm, thì Bồ tát dần đi sâu vào từ bitrí huệ, tức là nền tảng Phật tánh.

“Thiện nam tử! Đại Bồ tát ở trong tâm từ, lúc bố thí thức uống nên nguyện như vầy: Nay những thức uống tôi bố thí đều cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sanh đến sông Đại thừa, uống nước Tám vị mau vượt trên con đường vô thượng Bồ đề, lìa khỏi sự khô khát của Thanh Văn, Duyên Giáckhát ngưỡng cầu Phật thừa vô thượng, dứt khát phiền nãokhát ngưỡng pháp vị. Lìa niệm ưa sanh tửưa thích Đại Niết bàn Đại thừa, đầy đủ pháp thân, đắc các tam muội, nhập vào biển lớn trí huệ sâu xa. Nguyện các chúng sanh được vị cam lồ, vị Bồ đề xuất thế, tịch tĩnh lìa dục. Nguyện các chúng sanh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Đủ pháp vị rồi được thấy Phật tánh. Thấy Phật tánh rồi có thể rưới mưa pháp. Rưới mưa pháp rồi, Phật tánh trùm khắp như hư không.

Lại khiến cho vô lượng chúng sanh khác được một pháp vị là vị Đại thừa, chẳng phải vị của các Thanh Văn, Bích Chi Phật. Nguyện các chúng sanh chỉ cầu pháp vị, là vị vô ngại của Phật pháp hành hoạt, chẳng cầu những vị khác. 

Thiện nam tử! Đại Bồ tát lúc bố thí thức uống phải nên phát những nguyện kiên cố như vậy”.

Bồ tát luôn luôn ở trong tâm từ, tức là ở trong Phật tánh mà làm các ba la mật như bố thí, trì giới, kham nhẫn… cho đến những việc hàng ngày như đi đứng, ngủ nghỉ, ăn uống, nghĩ suy… Tất cả mọi hoạt động thân, khẩu, ý của Bồ tát đều phát xuất từ nền tảng tâm từ hay Phật tánh, tiến hành trong tâm từ hay Phật tánh, và kết thúc bằng cách hòa tan vào nền tảng tâm từ hay Phật tánh. Tin, hạnh, nguyện của Bồ tát đều từ tâm từ hay Phật tánhtrở lại hòa tan vào cội nguồn tâm từ Phật tánh.

Như thế mọi hành động của Bồ tát, bên ngoài là giúp đỡ cho chúng sanh, bên trong là mở rộng thêm cái thấy Phật tánh vốn có ở nơi mình.

Tâm từ kết hợp với Trí huệ ba la mật, Trí hệ soi thấu tánh Không, được gọi là tâm từ vô duyên hay tâm từ đệ nhất nghĩa.

“Lại nữa, thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ tát tu hành Đại Niết bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba?

Thiện nam tử! Đại Bồ tát tu Đại Niết bàn buông xả tâm từ mà đạt tâm từ. Khi ấy đạt tâm từ không do nhân duyên.

Thế nào là buông xả tâm từđạt được tâm từ? Thiện nam tử! Từ gọi là thế đế. Đại Bồ tát buông xả tâm từ thế thế, được tâm từ Đệ nhất nghĩa. Tâm từ đệ nhất nghĩa chẳng phải do nhân duyên.

Lại nữa, thế nào là buông xả tâm từđạt được tâm từ? Tâm từ nếu có thể buông xả thì gọi là tâm từ phàm phu. Còn tâm từ đạt được ấy thì gọi là tâm từ vô duyên của Bồ tát, đạt được tâm từ lân mẫn, đạt được tâm từ Như Lai, tâm từ Thế Tôn, tâm từ không có nhân duyên.

Đạt được tâm từ vô duyên của Bồ tát thì chẳng thấy tâm từ của mình, chẳng thấy tâm từ của người, chẳng thấy người giữ giới, chẳng thấy người phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy chúng sanh. Dầu có thọ khổ nhưng chẳng thấy người thọ. Vì sao thế? Vì tu hành Không chân thật đệ nhất nghĩa. Đó gọi là Bồ tát tu Đại Niết bàn thành tựu đầy đủ công đức thứ ba” (phẩm Quang Minh Biến Chiếu).

Tâm từ do nhân duyên, do hình tướngtâm từ thế gian. Tâm từ không có nhân duyên không có hình tướng, nghĩa là hợp nhất với tánh Khôngtâm từ xuất thế gian, tâm từ vô duyên, tâm từ đệ nhất nghĩa của chư Bồ tát và chư Phật. Tâm từ này là Phật tánh tánh Không, không có chủ thể và đối tượng, không khởi từ đâu không chấm dứt ở đâu, không thể xả vì không thể lấy, không có trung tâm và biên bờ, không có chúng sanh, người giữ giới hay người phá giới. Không ngã, nhân, chúng sanh, thọ giảtâm từ vô duyên, cũng chính là tánh Không, cũng chính là Phật tánh Đại Niết bàn.

Cho nên tu tâm từ người ta có thể xóa bỏ chấp ngã, chấp pháp, cái tôi và cái của tôi, tướng mình, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thế giới… để xóa bỏ tất cả sanh tử do phân biệt hư vọng và đạt vào Phật tánh vốn sẵn, thường trực hiện tiền.

 

Tâm đại từ, đại bi là hai đức của và trong Phật tánh. Thế nên tu từ bi khiến cho Bồ tát đạt đến Phật tánh, đạt đến nhất tử địa hay cực ái nhất tử địa, tức là địa thương yêu tất cả chúng sanh như con một.

“Thiện nam tử! Đại từ, đại bi gọi là Phật tánh. Vì sao thế? Vì đại từ đại bi thường theo Bồ tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sanh nhất định sẽ đạt được đại từ đại bi, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai.

Địa Nhất tử (con một) gọi là Phật tánh. Vì sao thế? Vì nhờ nhân duyên là địa này, Bồ tát đạt được tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh nhất định đạt đến địa Nhất tử, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Địa Nhất tử tức là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai” (phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống).

Đức từ của Bồ tát không thể nghĩ bàn, vì vượt lên tất cả cho đến địa vị Phật:

“Thiện nam tử! Nếu từ là có, là không, là chẳng phải có chẳng phải không thì tâm từ như vậy là chỗ các Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Nếu từ không thể nghĩ bàn, Pháp không thể nghĩ bàn, Phật tánh không thể nghĩ bàn, Như Lai cũng không thể nghĩ bàn”. (phẩm Thánh Hạnh).

Thế nên, niệm tâm từ là cảnh giới Phật:

“Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La Hầu La. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của chư Phật” (phẩm Thuần Đà).

 

Sau đó Đức Phật kể vài câu chuyện về sức mạnh hay năng lực của tâm từ, được gọi là những thần thông.

“Thiện nam tử! Ví như có người trông thấy từ xa sư tử, cọp, beo, chó sói, quỹ la sát… tự nhiên sanh sợ hãi, hoặc đi đêm trông thấy gốc cây cũng sanh sợ hãi.

Những người ấy tự nhiên sanh sợ hãi. Cũng thế những chúng sanh như vậy khi gặp người tu tâm từ tự nhiên được vui thích. Vì nghĩa ấy nên chỗ tu tâm từ của Bồ táttư duy chân thật, chẳng phải không có lợi ích.

Thiện nam tử! Ta nói tâm từ này có vô lượng môn, đó là những thần thông.

Thiện nam tử! Như Đề Bà Đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế muốn làm hại Như Lai. Lúc ấy ta vào thành lớn Vương Xá lần lượt khất thực. Vua A Xà Thế liền thả voi say Hộ Tài để hại ta và các đệ tử. Voi say ấy đạp chết nhiều người. Voi ấy ngửi thấy mùi máu lại càng thêm cuồng say chạy thẳng đến. Các đệ tử chưa lìa dục đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ trừ A Nan. Lúc đó nhân dân trong thành Vương Xá đồng thời kêu khóc, “Ôi, hôm nay đức Như Lai chết mất! Vì sao bậc Chánh Giác lại nhanh chóng tan hoại?” Lúc ấy Đề Bà tâm sanh vui mừng, “Sa môn Cồ Đàm chết đi là rất tốt, kế của ta rất hay, ta sẽ được toại nguyện”.

Thiện nam tử! Lúc bấy giờ ta vì muốn hàng phục voi say Hộ Tài bèn nhập Từ tam muội, xòe tay chỉ voi. Tức thời nơi năm ngón tay hiện ra năm sư tử. Voi ấy thấy vậy hoảng sợ, đại tiểu tiện tại chỗ, nằm phục xuống kính lễ chân ta.

Thiện nam tử! Khi ấy năm đầu ngón tay của ta thật khôngsư tử, đó là do sức thiện căn tu tâm từ khiến voi say được điều phục”.

Tâm từsức mạnh, năng lực điều phục được voi say hung dữ, khiến Đức Phật vượt qua được những trở ngại, những chống đối, làm hại.

“Lại nữa, thiện nam tử! Khi ta muốn nhập Niết bàn, bèn đi đến thành Câu Thi Na. Giữa đường có năm trăm lực sĩ đang sửa sang dọn đường sá. Có một tảng đá lớn giữa đường, họ muốn khiêng vất đi nhưng hết sức mà chẳng làm nổi. Bấy giờ ta thương xót bèn khởi tâm từ. Các lực sĩ liền thấy ta lấy ngón chân cái hất tảng đá lên hư không rồi lấy tay hứng, đặt trong bàn tay phải. Ta thổi cho thành bụi, rồi hợp lại thành tảng đá khiến các lực sĩ hết kiêu mạn. Ta bèn giảng cho họ, nói các pháp yếu khiến họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy Như Lai thật chẳng dùng ngón chân hất hòn đá lên, thổi tan thành bụi, rồi hợp lại như cũ. Thiện nam tử! Nên biết rằng đó chính là sức thiện căn của tâm từ làm cho các lực sĩ thấy như vậy”.

Nếu tâm từnăng lực như thế thì phải chăng nước chảy, mây trôi, cây mọc… đều là năng lực của tâm từ?

Năng lực của tâm từ biến những nghịch cảnh, những chống đối làm hại thành thuận cảnh, thành những biểu hiện của Pháp:

“Thiện nam tử! Xứ Nam Thiên Trúc này có một thành lớn tên là Thủ Ba La. Trong thành đó có một trưởng giả tên Lưu Chí, dẫn dắt sự tu hành của đại chúng. Ông này đã trồng những thiện cănvô lượng Phật quá khứ. Nhân dân trong thành tin theo tà đạo, phụng sự phái Ni Kiền. Ta muốn độ trưởng giả Lưu Chí, nên từ thành Vương Xá đến Thủ Ba La. Phái Ni Kiền nghe ta sắp đến thành thì bàn với nhau: Sa môn Cù Đàm nếu đến thành này, nhân dân chắc sẽ bỏ chúng ta không còn cung cấp, chúng ta lấy gì sanh sống.

Bàn xong, chúng Ni Kiền phân ra, loan báo với người trong thành: Sa môn Cù Đàm sắp đến, nhưng Sa môn ấy lìa bỏ cha mẹ lang thang các nơi, ông đến đâu thì làm cho xứ ấy mất mùa đói khát, nhân dân bị bệnh dịch không thể cứu chữa. Cù Đàm là hạng không nhà, dắt theo toàn những quỷ thần La Sát hung ác, những kẻ không gia đình mới làm đệ tử. Giáo thuyết của ông toàn là hư không. Ông ta đến chỗ nào thì xứ đó không được an vui.
Nhân dân trong thành nghe những lời ấy sợ hãi quá lễ lạy dưới chân các Ni Kiền, thưa rằng: Đại sư! Nay chúng tôi phải tính toán thế nào?
Các Ni Kiền đáp: Sa môn Cù Đàm có tính ưa cây rừng, suối chảy, nước trong. Các người nên ra ngoài thành, chỗ nào có rừng suối thì đốn hết cây cối, đem phân dơ đổ vào giếng, ao, khe, suối. Hãy đóng chặt cửa thành, võ trang canh phòng. Ông ấy đến thì đừng cho vào, đừng cho ai gặp, các ngươi sẽ được an ổn. Chúng ta cũng làm các pháp thuật để cho ông Cù Đàm phải rút lui.
Nhân dân trong thành liền làm theo, đốn hết cây cối, làm dơ đục các dòng suối, võ trang phòng vệ.
Thiện nam tử! Khi ta đến ngoài thành, chẳng thấy rừng cây, chỉ thấy trên mặt thành võ trang phòng bị chặt chẽ, ta liền thương xót hướng tâm từ đến đó. Những cây cối mọc lên như cũ mà có phần tươi tốt hơn. Nước trong sông, ao, giếng, suối trở nên trong sạch, tràn đầy như lưu ly, lại sanh ra nhiều thứ hoa đẹp thơm lan tràn mặt đất. Vách thành biến thành lưu ly trong suốt xanh biếc. Nhân dân trong thành đều được thấy ta và đại chúng. Cửa thành tự mở rộng, không ai ngăn lại được. Các thứ binh khí đều hóa thành những loại hoa đẹp.

Lúc ấy trưởng giả Lưu Chí dẫn đầu, nhân dân trong thành tập hợp đến chỗ ta. Ta liền vì mọi người nói các pháp yếu khiến hết thảy đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Thiện nam tử! Khi ấy ta thật chẳng hóa ra rừng cây, cũng chẳng làm cho nước trong sạch đầy tràn, cũng chẳng biến thành đó thành lưu ly trong suốt xanh biếc để cho nhân dân kia thấy rõ được ta và đại chúng, cũng chẳng mở cửa thành, biến vũ khí làm cành hoa.

Thiện nam tử! Nên biết những sự việc ấy đều do sức căn lành của tâm từ, khiến cho nhân dân thành Thủ Ba La thấy những sự việc như vậy”.

Kinh còn nói tiếp những sự kiện khác về năng lực của tâm từ. Nhưng chỉ qua ba việc này, chúng ta cũng thấy “công đức của tâm từ không thể nghĩ bàn”.

Đó là năng lực chuyển hóa của tâm từ. Nó có thể biến hoàn cảnh thù địch thành hoàn cảnh thân thiện, biến cái xấu ác thành cái thiện lành, và biến cảnh vật xấu dơ thành đẹp đẽ, trong sạch, thành thường lạc ngã tịnh.

Có phải cái đẹp của thế gian là do tâm từ mà có? Chính tâm từ tạo thành cái đẹp của thiên nhiên, con ngườithế giới.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16274)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 18020)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19346)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21432)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19778)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 22984)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17291)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17747)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16255)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 16021)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21834)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19849)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20217)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19472)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
(Xem: 17146)
Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn...
(Xem: 18438)
Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con...
(Xem: 17213)
Niềm hòa bình tâm tư thật sự là những thứ vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của loài người, cho sự tồn tại mạnh khỏe của con người.
(Xem: 15866)
Cháu không nên mua con chó này. Nó sẽ chẳng bao giờ chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con chó khác được...
(Xem: 15861)
Tôi ước mình có đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật sự với bản thân chứ không phải cuộc sống theo mọi người mong muốn...
(Xem: 15012)
Khi thầy làm được những gì mình nói và làm nhiều hơn nói thì những bài học kiệm lời ấy từ nơi thầy lại có tác dụng thức tỉnhchuyển hóa học trò mạnh mẽ...
(Xem: 16757)
Chép kinh là một hình thức công phu. Muốn chép kinh trước phải đọc, ghi nhớ rồi sau đó mới nắn nót lời kinh. Chữ kinh phải ngay thẳng...
(Xem: 14994)
Tôi luôn luôn tuyên bố rằng, địa cầu là của loài người trên thế giới, 7 tỉ người. Và mỗi quốc gia là của người dân đất nước ấy...
(Xem: 13626)
"nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không, thì tương lai cũng sẽ chẳng có"... HT Thích Như Điển
(Xem: 16080)
Lòng từ bi không thành kiến không bị định hướng bởi hành động, thái độ mà luôn luôn xem họ như những chúng sanh, hay những con người.
(Xem: 15975)
Hơn bao giờ hết tuổi trẻ cần được dìu dắt về mọi mặt, nhất là về cuộc sống tâm linh... Tâm Thường Định
(Xem: 11027)
Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa.
(Xem: 15524)
Mục đích duy nhất là phát triển tiềm năng vốn có của Phật giáo Việt nam đang được hình thành trên đất Mỹ... Thích Đức Trí
(Xem: 15576)
Đức Phật là một dòng sông đã bứt phá qua sa mạc của thân phận nhân loại để chảy hòa vào đại dương công đức, trí huệtừ bi của các Bậc Chiến Thắng.
(Xem: 15492)
Cộng đồng Phật tử phương Tây nổi tiếng vì đức khoan dung của họ và chính đức Dalai Lama cũng có các đệ tử đồng tính một cách công khai.
(Xem: 16809)
Quanh năm Nam chỉ thấy Trung loay hoay với mấy bộ đồ cũ mèm, đến đôi dép đứt quai vá víu nhiều chỗ, anh cũng không quan tâm...
(Xem: 17490)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là một lãnh tụ rất quyến rũ, vui tínhđặc biệt. Ngài được cho là hóa thân thứ 14 của Đức Phật từ bituệ trí.
(Xem: 14128)
"Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp"... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 18065)
Nguyên tác: 2012 Templeton Prize Award Ceremony Honoring His Holiness the Dalai Lama. Ẩn Tâm Lộ ngày 17-5-2012, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 17149)
Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 18045)
Đức Thế Tôn rất vui mừng khi chúng ta tầm cầu sự quy y trong ba ngôi tôn quý, Đức Phật, giáo huấn của Ngài và đệ tử của Ngài...
(Xem: 16813)
Lễ Đại Tường Cố HT Thích Quảng Tâm ngày 21/4/Nhâm Thìn tại Tu Viện Vĩnh Đức ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 16771)
Phật Tổ đã hy sinh cả cuộc đời mình để chỉ lối cho con người tới với tự do, thoát khỏi khổ ải – trong đó có cả những khó khăn trong công việc.
(Xem: 16589)
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo... Albert Einstein
(Xem: 15034)
Trong thế giới văn học, đặc biệtPhật Giáo qua âm nhạc và thơ văn, không có một người nào khi biết đến Liên Hoa mà không mến mộ, không yêu thương...
(Xem: 16333)
Người Phật tử Việt Nam chúng ta thì tuy không oán hờn bất cứ ai nhưng Nhân – Quả thì luôn sòng phẳng, mọi người không phân biệt hèn sang, tôn giáo, chính kiến...
(Xem: 13929)
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không...
(Xem: 12575)
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh...
(Xem: 21268)
Nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.
(Xem: 18247)
Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm...
(Xem: 16521)
Bài tường trình về khóa tu học tại Chùa Phật Tổ do Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu hướng dẫn 2012
(Xem: 16928)
Câu chuyện của vũ trụ đã từng được kể đến trong nhiều kiểu cách bởi những con người ở trên trái đất, từ những thời điểm sớm sủa nhất của thời kỳ Đồ đá cũ (Paleolithic)...
(Xem: 16692)
Trong hơn 20 năm Hòa Thượng Đã tài trợ cho Tăng Ni du học Ấn Độ tổng số tiền 1 triệu USD
(Xem: 17017)
Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo - không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo - là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối tương quan của mọi pháp...
(Xem: 17579)
Một phương đã rực suối nguồn, Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn...
(Xem: 13368)
Thực ra, nếu bạn biết quan sát cho sâu sắc vào thân tâmhoàn cảnh hiện tại thì chẳng có cái gì gọi là ta và của ta cả.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant