Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mong Ước Điều Lành

06 Tháng Giêng 202119:34(Xem: 4009)
Mong Ước Điều Lành
Mong Ước Điều Lành 

Thích Nguyên Hùng

Tôi Xin Nói Lời Xin Lỗi


Bình anhạnh phúc là niềm mong ước của cả nhân loại, không phân biệt màu da, tôn giáo. Ai ai cũng mong muốn cho bản thân, gia đình, đất nước của mình được bình an, được hạnh phúc. Hạnh phúc cần phải được thiết lập, xây dựngnuôi dưỡng bằng tình yêu, hiểu biết và kinh tế ổn định ; nhưng để có được bình an - thứ giá trị mà có kinh tế chưa chắc đã mua được, người ta cần phảiniềm tin tôn giáo và sự hành trì tu tập.

Đôi khi, ở xã hội này, con người ta đã có tất cả : tình yêu, tài sản, địa vị, quyền lực… nhưng vẫn cảm thấy bất an, vẫn cảm thấy chưa có hạnh phúc. Và đối với nhiều người, khi chứng kiến cuộc sống đầy bất an, bạo lực, khủng bố, bất bình đẳng… ở thế giới này, họ đã hơn một lần mong thoát khỏi nó, mong được lên thiên đường, sống chung với Thượng đế hoặc vãng sinh về cảnh giới hoàn toàn không có khổ đau. Trớ trêu thay, ngay cả chúng sinhThiên giới, tức các vị trời, lại cũng có chung một thao thức, một mong ước… rất con người, như con người : họ cũng ước mong được học hỏi, được hiểu biết về cách thức tạo dựng những phúc lành cao thượng, gieo trồng những hạt giống phước điền nhằm xây dựng một đời sống an lànhhạnh phúc. Chuyện như vầy:

Hôm nọ, khi Đức Thế tôn đang cư ngụ tại thành Xá-vệ, trong tịnh xá Kỳ viên. Bấy giờ, đêm đã vào khuya, có một vị trời, dung sắc thù thắng, hào quang chiếu rạng, sáng toả Kỳ viên, xuống nơi Phật ngự, đảnh lễ Thế tôn, rồi đứng một bên, cung kính bạch Phật, bằng lời kệ rằng :

"Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng".

Trên đây là những điều được chính Tôn giả A-nan nghe và tường thuật lại thành bản kinh có tên Mahamangala sutta, được kết tập trong tạng kinh Pali, bộ Sutta Nipata, 258-269. Bản kinh này thường được biết đến với tên gọi là Kinh Phước đức, hay Kinh Đại phước đức hoặc kinh Đại hạnh phúc và được các Phật tử các nước Phật giáo Nam truyền như Tích lan, Miến điện, Thái lan… trì tụng thuộc lòng mỗi ngày. Cũng với nội dung này, trong tạng kinh Bắc truyền chữ Hán, nó được kết tập thành phẩm 39, phẩm Cát tường của bộ Kinh Pháp cú, thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu, số 210 ; và phẩm 42 cùng tên trong bộ Pháp cú Thí dụ, số 211 thuộc ĐTK/ĐCTT.


Mở đầu bản kinh đã cho thấy, không những chỉ loài người, mà cả chư thiên, đều suy nghĩ, mong ước, tìm cầu và mong đợi một đời sống an lành. Hoá ra đời sốngThiên giới không hẳn đã được an lành ! Kinh điển Phật giáo cho chúng ta biết đời sống của các chư thiênphước báosung sướng hơn hẳn loài người, nhưng vẫn còn chịu sự chi phối của sinh tử luân hồi nên chưa hết khổ đau. Mà chưa hết khổ đau thì vẫn còn xu yếu tầm cầu hạnh phúc. Để thoả mãn cho những thao thức của cả chư thiênnhân loại, Đức Thế tôn trình bày 38 phương cách sống đưa tới phúc lành cao thượng mà theo Đức Thế tôn, thực tập theo những điều này mới chính là phước đức lớn nhất hay cát tường, tốt đẹp nhất ! Đọc bản kinh, chúng ta thấy rõ nội dung của nó chứa đựng những giá trị luân lý đạo đức hết sức căn bản của con người, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn mang tính định hướng nghề nghiệp rất cơ bản, những phương cách hành xử giữa cá nhân với gia đìnhxã hội rất nhân văn.

Trong phẩm Cát tường kinh Pháp cú, chúng ta có 49 điều cát tường, nhiều hơn kinh Phước đức 10 điều, nhưng tựu trung nó cũng là những chỉ dẫn thiết yếu cho đường đời cũng như tiến bộ tâm linh. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý là, trong khi kinh Phước đức mở đầu bằng lời khuyên :

"Không gần gũi kẻ ác (1)
Thân cận bậc trí hiền (2)
Tôn kính bậc đáng kính (3)",
 
thì phẩm Cát tường kinh Pháp cú đưa ra lời cảnh tỉnh :
"Ai vui tin chính pháp (1)
Là điều kiết tường nhất.
Chẳng phải xin trời, người (2)
Cũng không cúng thần thánh (3)
Để cầu điều may mắn
Là điều kiết tường nhất”.        

Không thể cầu cạnh, van xin người khác cho mình sự bình an, hạnh phúc, mà ngay cả các đấng trời, đất, thánh thần… chúng ta cũng không thể cầu cúng cho họ mà đạt được điều may mắn. Sự thật này cũng đã được nói đến trong Kinh Pháp cú, phẩm Đức Phật:


“Tìm nhiều chỗ quy y
Nơi thần cây, sông, núi
Họa tượng, lập miếu thờ
Cúng tế để cầu phước
Ai quy y như vậy
Không tốt lành, tối thượng
Bởi thần kia đâu đến
Để cứu khổ ai đâu?”[i]

Các vị thần linh không ai đến để cứu khổ cho chúng ta, không ai đến để ban cho chúng ta sự bình an, hạnh phúc. Chúng ta cũng không thể cầu phước bằng cách hoạ tượng, lập miếu thờ thần cây, núi đá, miễu bà, dinh cô… Muốn có được đời sống an lành, hạnh phúc chân thật chúng ta cần phải tu tập, hành trì đúng chánh pháp để chuyển hoá thân tâm thoát khỏi mọi nhiễm ô, phiền não. Sau khi đã xác định không ai ngoài bản thân của mỗi chúng ta chịu trách nhiệm về cuộc đời của chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là hệ quả tất yếu của các hành nghiệp chính mình gây tạo ra, chúng ta bắt đầu thực tập : không gần gũi kẻ ác (1), thân cận bậc trí hiền (2), tôn kính bậc đáng kính (3). Tổ tiên ta vẫn thường dạy ‘gần mực thì đen’, còn chư tổ thì dạy ‘hiệp tập ác giả trưởng ác tri kiến’, tức gần gũi kẻ xấu ác thì chỉ làm cho cái thấy, cái biết ngày một trở nên xấu xa. Cho nên, không những cần phải tránh xa kẻ ác mà còn phải ‘thân cận bậc trí hiền’, điều mà trong kinh thường nói là ‘thân cận thiện sĩ’, tức gần gũi thầy lành bạn tốt để làm cho cái thấy, cái biết ngày càng trở nên rộng lớn, sáng suốt. Sáng suốt để mà biết phân biệt, để ‘tôn kính bậc đáng kính’, chứ không phải gặp đâu cũng lạy, thấy ai cũng cúi đầu cho họ ‘quán đảnh’!


Rồi thì, đối với môi trường sống, cần phải lựa chọn ở trú xứ thích hợp (4). Trú xứ thích hợp là khi ở đó mình có thể được tạo tác nhân lành (5) và được đi trên đường chánh (6). Tạo tác, gieo trồng hạt giống tốt lành, thiện pháp thì gặt được quả báo tốt đẹp, an vui. Đi trên đường chánh là y chỉ trên Bát chánh đạo.

Bát chánh đạo dạy cho một người Phật tử phải sống chánh nghiệpchánh mạng. Cho nên, cần phải có học (7), để có nghề hay (8), và nghề ấy lương thiện (13). Trong xã hội phát triển và mở cửa hội nhập như xã hội chúng ta ngày nay thì người có học và có nghề giỏi có rất nhiều cơ hội thành công, nhưng cần phải biết cung kính (22), khiêm nhường (23), nhẫn nhục (27), thuần hoá (28) và tự kiềm chế (19) để không bị say sưa (20). Không nghiện ngập say sưa trong rượu chè và càng không nên để say sưa, đắm mình trong dục vọng, lợi danh. Muốn vậy, cần phải biết hành trì giới luật (9) để hành vi không lỗi lầm (17) và xả ly tâm niệm ác (18). Thiết lập đời sống tự tại, thong dong (36) nhờ tu tập thiền định (31); gần đời mà chẳng hôi tanh mùi đời (37) nhờ sống phạm hạnh (32); thấy được chân lý của cuộc đời (33) nhờ thường yết kiến sa-môn (29), đúng thời nghe chánh pháp (26) và tuỳ thời đàm luận pháp (30). Đối với mình thì tri túc (24), đối với người thì tri ân (24). Đối với gia đình thì hiếu thuận bậc sanh thành (11), chăm sóc vợ và con (12); đối với người ngoài thì bố thí (14), hành đúng Pháp (15) và giúp ích hàng quyến thuộc (16). Đối với thiện pháp nếu tinh cần thực tập (21) thì khi xúc chạm việc đời tâm không hề lay chuyển (35).

Tựu trung, những điều vừa được chỉ dẫn nếu thực hành không chỗ nào thối thất (38) thì đâu đâu cũng có được an toàn, hạnh phúc. Đó là những chỉ dẫn của Đức Thế tôn về một con đường chắc chắn đưa đến thành tựu sự nghiệp ở đời và cũng thành tựu đời sống tâm linh vững chắc, chứng ngộ quả niết-bàn (34). Đây chính là phương cách tầm cầu phước đức tối thượng nhằm đạt được đời sống hài hoà và tiến bộ cho cá nhân cũng như đưa đến hạnh phúc cho gia đình, hoà bình cho xã hội.

Sau đây chúng ta hãy đọc toàn bộ nội dung bản kinh :

Kinh Hạnh Phúc
Như vầy tôi nghe :
Một thời Thế tôn
Ngự tại Kỳ viên
tịnh xá Cấp cô độc
Gần thành Xá vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu
Sáng tỏa Kỳ viên
Đến nơi Phật ngự
Đảnh lễ Thế tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng :

Chư thiênnhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin Ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng.

Thế Tôn tùy lời hỏi
Rồi giảng giải như vầy :

Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phúc lành cao thượng

Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng

Đa văn nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng

Hiếu thuận bậc sanh thành
Chăm sóc vợ và con
Sống bằng nghề lương thiện
Là phúc lành cao thượng

Bố thí hành đúng Pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Hành vi không lỗi lầm
Là phúc lành cao thượng

Xả ly tâm niệm ác
Tự chế không say sưa
Tinh cần trong thiện pháp
Là phúc lành cao thượng

Biết cung kính khiêm nhường
Tri túctri ân
Đúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng

Nhẫn nhục tánh thuần hoá
Thường yết kiến sa môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng

Thiền định sống phạm hạnh
Thấy được lý thánh đế
Chứng ngộ quả niết bàn
Là phúc lành cao thượng

Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tạivô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Những sở hành như vậy 
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng.



[i] Kinh Pháp cú Bắc truyền, phẩm Đức Phật, kệ 14-15, Thích Nguyên Hùng dịch.

blank



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 998)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1240)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant