Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ

12 Tháng Giêng 202119:03(Xem: 4322)
Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ
Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ 

Thích Nguyên Hùng

Cùng Nghiệp Thì Kết Duyên Với Nhau


Thầy Soṇa (Tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức) vốn là một nhạc sĩ. Khi chưa xuất gia, thầy chơi đàn cầm rất giỏi. Những bản nhạc được thầy biểu diễn nghe rất êm tai. Thầy hát cũng rất hay. Mỗi khi thầy vừa đàn vừa hát thì tiếng đàn hòa điệu với lời ca, lời ca nhịp nhàng với tiếng đàn, trầm bỗng du dương nghe hoài không chán. Nhà thầy lại rất giàu, cha mẹ cực kỳ phú quý, lắm tiền nhiều của. Vậy mà thầy đã bỏ tất cả để đi tu.

Sau khi đã đi tu, Tôn giả Nhị Thập Ức rất nỗ lực, “đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm.” Thầy đã từng nghĩ “Nếu có đệ tử nào của đức Thế Tôn tinh cần học tập pháp luật chân chánh thì ta là người bậc nhất.” Vậy mà, sau bao nhiêu cố gắng, tâm của người trai trẻ vẫn “chưa giải thoát được các lậu.” Điều này khiến thầy Soṇa ray rứt! Thầy cảm thấy có lỗi, hay mặc cảm tội lỗi. Mình là người chí tín xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không có gia đình, không vật sở hữu, ăn ngày một bữa và tối ngủ dưới gốc cây, rất hết lòng thực tập pháp mà tại sao không thoát khỏi được những phiền não? Tu tập không có kết quả thôi thì trở về nhà, sống đời cư sĩ, bố thí cúng dường cầu phước, vì gia đình mình rất giàu có, chứ sống đời xuất gia lây lất qua ngày tháng không nếm được pháp vị như vậy thật đáng xấu hổ!

Bằng tha tâm trí, Đức Phật biết được tâm niệm của thầy Soṇa, thấy được nỗi niềm ray rứt của bậc trượng phu, chứ không như những kẻ yếu hèn giới rách, giới thủng mà không biết tàm quý, cứ vênh vênh tự mãn. Thế Tôn cho gọi Soṇa đến. Khi ấy Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thẹn thùng xấu hổ, không thể không hoang mang. Thế Tôn nhìn tôn giả, ân cần thăm hỏi:

- Này Soṇa, khi con sống tại gia, giỏi đánh đàn cầm nên tiếng đàn hòa điệu với lời ca, lời ca ăn khớp với tiếng đàn, có phải vậy chăng?

Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thưa:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Thế Tôn lại hỏi:

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn căng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa không?

Sa-môn Nhị Thập Ức đáp:

- Bạch Thế Tôn, không!

Đức Thế Tôn lại hỏi:

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn chùng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn vừa phải, không căng quá, cũng không chùng quá, thì tiếng đàn có đáng ưa không?

- Bạch Thế Tôn, đáng ưa.

- Cũng vậy, này sa-môn, quá sức tinh tấn sẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy ngươi hãy phân biệt thời gian nào nên quán sát tướng nào, chớ nên buông lung (Trung A-hàm 123, Kinh sa-môn Nhị Thập Ức).

Lãnh thọ ví dụ đàn cầm do Đức Phật dạy rồi, tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức liền sống một mình ở nơi xa vắng, tâm không buông lung, tu hành tinh tấn, liền đạt được mục đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, duy chỉ mong thành tựu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức chứng quả A-la-hán, tìm được hạnh phúc, an lạc trong sáu trường hợp: an lạc nơi vô dục, an lạc nơi viễn ly, an lạc nơi vô tránh, an lạc nơi ái tận, an lạc nơi thủ tận, và an lạc nơi tâm không di động.

An lạc nơi vô dục

Niềm vui, niềm hạnh phúc ở giữa cuộc đời trần tục gọi là dục lạc, tức những niềm vui, niềm hạnh phúc có được khi thỏa mãn những nhu cầu tham muốn, dục vọng của con người. Niềm vui này, đối với bậc giác ngộ, bậc thánh trí thấy nó thô tục, thấp hèn. Cho nên, người tu học theo Phật pháp là hướng đến đời sống phạm hạnh, thanh tịnh, vui niềm vui vô dục, vô cầu, thanh tịnh, giải thoát.

Tôn giả Nhị Thập Ức cho biết, chúng ta không thể chỉ bằng niềm tinđạt được giải thoát, có được niềm vui nơi vô dục. Kinh ghi: “Bạch Thế Tôn, hoặc có người nghĩ rằng: ‘Hiền giả này do y tín tâm nên an lạc nơi vô dục.’ Người ấy không nên quán như vậy.” Vậy thì, bằng cách nào và cho đến khi nào mới có được niềm vui an lạc thật sự là vô dục? “Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuếngu si thì mới an lạc nơi vô dục.” Rõ ràng, căn bản của sự tu tập, của mọi pháp môn đều nhằm mục đích đoạn tận phiền não. Nếu căn bản phiền não tham, sân, si… chưa dứt trừ thì người xuất gia không thể có niềm vui được gọi là niềm vui nơi vô dục.

An lạc nơi viễn ly

Viễn lyxa lìa, là buông bỏ, là vượt thoát mọi chướng ngại trên con đường tu hành hướng đến Phật quả. Bản thể của pháp vô vi là không, tức là thoát ly mọi sự tướng của pháp hữu vi, cho nên có khi người ta gọi pháp vô viviễn ly. Người tu hành Phật đạo, điều quan trọng trước hết là phải xa lìa mọi tội ác từ nơi thân và nơi tâm, để thân tâm thanh tịnh, gọi là thân viễn ly và tâm viễn ly. Theo tổ sư Thế Thân chỉ dạy thì Bồ-tát muốn lìa xa những chướng ngại, tiến đến quả vị bồ-đề, cần phải thực hành ba pháp. Một là phải buông bỏ cái tâm chấp ngã, không tham trước tự thân, tức lấy trí tuệ để phá tâm chấp ngã, không mong cầu an lạc của tự thân. Hai là phải buông bỏ cái tâm bỏ mặc sự an vui của chúng sinh, tức là phải lấy tâm từ bi để bạt trừ mọi khổ đau của chúng sinh, để cho hết thảy chúng sinh được an vui. Ba là phải bỏ đi cái tâm ưa được cúng dường, cung kính, phụng dưỡng cái thân giả tạm này.

Một cách tổng quát, viễn lyxa lìa ác hạnh, buông bỏ dục vọng, khước từ hưởng thụ vật chất, từ bỏ chốn phồn hoa ồn ào, và quan trọng nhất là xa lìa phiền não. Do đó, những ai “thích được khen ngợi, muốn được cúng dường” mà bảo rằng có “an lạc nơi viễn ly” là điều không thực vậy!

An lạc nơi vô tránh

Vô tránh là dứt trừ sự tranh cãi. Công đức của người tu được xây dựng từ việc “nội cần khắc niệm chi công, ngoại hành bất tranh chi đức.” Bên trong luôn giữ gìn chánh niệm, bên ngoài luôn thể hiện đức tính không tranh đua với đời. Luận Du-già nói rằng, “phương tiện hoà hợp, cùng nhau làm Phật sự, ấy là vô tránh.” Cho nên, để phụng sự Tam bảo làm lợi lạc chúng sinh, hãy gạt bỏ đi cái bản ngã của riêng mình, cùng hoà hợplàm Phật sự. Tránh (phạn araṇā) là tranh luận, là tên gọi khác của phiền não. Lẽ nào người tu lại ưa chuốc lấy phiền não với những tranh luận, hơn thua?

An lạc nơi ái tận

Ái tận là nhổ tận gốc rễ tâm ái dục, đoạn tận không dư tàn gốc ái dục. Luận Du-già nói “ái tận là không mong cầu sự hiện hữu đời sau,” bởi cái gốc của sinh tử luân hồi chính là khát ái, cho nên đoạn tận cái nhân cho đời sau gọi là ái tận. Ái tận thì an lạc vào niết-bàn. Pháp cú Bắc truyền, kệ 550, ghi: “Như gốc cây sâu, chắc/ Dù chặt vẫn còn lên/ Tâm ái chưa trừ hết/ Đau khổ còn chịu thêm.” Vì vậy, “Đốn cây không tận gốc/ Chồi nhánh sẽ lại sanh/ Đốn cây luôn gốc, ngọn/ Tỷ-kheo vào niết-bàn” (Kệ 554).

An lạc nơi thủ tận

Do ái mà chấp thủ, cho nên ái tận thì thủ tận, thủ tận thì hữu không còn, hữu không còn thì già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não… cũng không còn. Thủ, upādāna, tức nắm giữ, ôm giữ lấy. Gồm có dục thủ, ôm giữ những thứ mình yêu thích. Yêu quê hương, đất nước mà dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan là điều mà cả thế giới lo lắng, sợ hãi bởi những kinh nghiệm thương đau do nó để lại từ quá khứ! Yêu tôn giáo đến cuồng tín, chấp nhận hy sinh bản thân mình và đồng loại để thoả mãn ước muốn, tham vọng xây dựng nhà nước tôn giáo của riêng mình là một thứ dục thủ đang nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố. Kiến thủ là ôm giữ những quan điểm, kiến thức, hiểu biết hẹp hòi, chống lại quy luật phát triển tự nhiên, chống lại khuynh hướng toàn cầu hoá, chống lại sự thật. Giới cấm thủ là chấp giữ những quy luật, những nguyên tắc, những giáo điều, những giới luật không đưa đến giải thoát và gây khổ đau cho mình, cho người, cho muôn loài. Giới cấm thủ trói buộc chính những con người ôm giữ nó vào những hình phạt dã man vô nhân tính. Ngã ngữ thủ, ātma-vādopādāna, là ôm giữ những lý luận về bản ngã, chấp giữ những lý thuyết hay quan điểm về bản ngã, linh hồn.

Khát áitrạng thái khao khát ở trong tâm, làm phát sinh ra ý niệm thương ghét; còn thủ là hành động thực tế tương ứng với ý niệm thương ghét đó, hoặc sẽ chiếm đoạt, hoặc sẽ ghét bỏ đối tượng mà mình yêu thích hay không yêu thích. Những hành vi của thân và khẩu như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời hung ác, nói lời gây mâu thuẫn, nói những lời dụ dỗ… đều được thúc đẩy bởi thủ. Có thể nói thủ chính là hành vi tạo nghiệp. Cho nên, thủ tận thì nghiệp cũng tận. Nghiệp tận thì hết sinh tử luân hồi!

An lạc nơi tâm không di động

Tâm không di độngthong dong tự tạivô nhiễm giữa cuộc đời ô trược, nhiễu nhương, biến loạn… Đối với các dục, như tài, sắc, danh, thực, thuỳ… tâm không hề dính mắc. Để tâm không dính mắc vào các dục thì phải phát khởi cái tâm không an trụ vào đâu cả, phải để cái tâm vào chỗ không (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Kinh Đại không, nói: “Tỳ-kheo hãy bằng nội ngoại không thành tựu an trụ. Vị ấy sau khi nội ngoại không thành tựu an trụ, tâm không di động, hướng đến gần, được lắng trong, an trụ, giải thoát” (Trung A-hàm, kinh số 191). Với cái tâm như vậy, Tôn giả Nhị Thập Ức “ví như núi đá, gió không lay nổi. Tức là đối với các pháp sắc, thanh, hương, vị, thân xúc, những pháp khả ái và không khả ái… không thể làm cho tâm lay động!

Tóm lại, để có được đời sống “an lạc nơi sự an lạc của bậc Thánh, an lạc do vô dục, an lạc do viễn ly, an lạc do tịch tịnh, an lạc do chánh giác, an lạc phi vật dục, an lạc phi sanh tử”, chúng ta phải dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si! Đó chính là kinh nghiệm của thầy Nhị Thập Ức, người vốn là nghệ sĩ chơi đàn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1363)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1442)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1467)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1372)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1321)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1128)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1235)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1225)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1306)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1335)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1404)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1265)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1369)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1278)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1238)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1311)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1241)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1419)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1672)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1364)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1660)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1261)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1178)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1393)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1256)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1320)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1465)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1704)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1713)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1516)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1711)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1397)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1362)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1881)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1463)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1412)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1369)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1342)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1436)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1288)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1544)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1535)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1398)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1399)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1289)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1686)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1442)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1241)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1540)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant