Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ

12 Tháng Giêng 202119:03(Xem: 4356)
Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ
Người Thầy Nghệ Sĩ Và Hạnh Phúc Xuất Sĩ 

Thích Nguyên Hùng

Cùng Nghiệp Thì Kết Duyên Với Nhau


Thầy Soṇa (Tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức) vốn là một nhạc sĩ. Khi chưa xuất gia, thầy chơi đàn cầm rất giỏi. Những bản nhạc được thầy biểu diễn nghe rất êm tai. Thầy hát cũng rất hay. Mỗi khi thầy vừa đàn vừa hát thì tiếng đàn hòa điệu với lời ca, lời ca nhịp nhàng với tiếng đàn, trầm bỗng du dương nghe hoài không chán. Nhà thầy lại rất giàu, cha mẹ cực kỳ phú quý, lắm tiền nhiều của. Vậy mà thầy đã bỏ tất cả để đi tu.

Sau khi đã đi tu, Tôn giả Nhị Thập Ức rất nỗ lực, “đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm.” Thầy đã từng nghĩ “Nếu có đệ tử nào của đức Thế Tôn tinh cần học tập pháp luật chân chánh thì ta là người bậc nhất.” Vậy mà, sau bao nhiêu cố gắng, tâm của người trai trẻ vẫn “chưa giải thoát được các lậu.” Điều này khiến thầy Soṇa ray rứt! Thầy cảm thấy có lỗi, hay mặc cảm tội lỗi. Mình là người chí tín xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không có gia đình, không vật sở hữu, ăn ngày một bữa và tối ngủ dưới gốc cây, rất hết lòng thực tập pháp mà tại sao không thoát khỏi được những phiền não? Tu tập không có kết quả thôi thì trở về nhà, sống đời cư sĩ, bố thí cúng dường cầu phước, vì gia đình mình rất giàu có, chứ sống đời xuất gia lây lất qua ngày tháng không nếm được pháp vị như vậy thật đáng xấu hổ!

Bằng tha tâm trí, Đức Phật biết được tâm niệm của thầy Soṇa, thấy được nỗi niềm ray rứt của bậc trượng phu, chứ không như những kẻ yếu hèn giới rách, giới thủng mà không biết tàm quý, cứ vênh vênh tự mãn. Thế Tôn cho gọi Soṇa đến. Khi ấy Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thẹn thùng xấu hổ, không thể không hoang mang. Thế Tôn nhìn tôn giả, ân cần thăm hỏi:

- Này Soṇa, khi con sống tại gia, giỏi đánh đàn cầm nên tiếng đàn hòa điệu với lời ca, lời ca ăn khớp với tiếng đàn, có phải vậy chăng?

Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thưa:

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Thế Tôn lại hỏi:

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn căng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa không?

Sa-môn Nhị Thập Ức đáp:

- Bạch Thế Tôn, không!

Đức Thế Tôn lại hỏi:

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn chùng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn vừa phải, không căng quá, cũng không chùng quá, thì tiếng đàn có đáng ưa không?

- Bạch Thế Tôn, đáng ưa.

- Cũng vậy, này sa-môn, quá sức tinh tấn sẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy ngươi hãy phân biệt thời gian nào nên quán sát tướng nào, chớ nên buông lung (Trung A-hàm 123, Kinh sa-môn Nhị Thập Ức).

Lãnh thọ ví dụ đàn cầm do Đức Phật dạy rồi, tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức liền sống một mình ở nơi xa vắng, tâm không buông lung, tu hành tinh tấn, liền đạt được mục đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, duy chỉ mong thành tựu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.’ Tôn giả sa-môn Nhị Thập Ức chứng quả A-la-hán, tìm được hạnh phúc, an lạc trong sáu trường hợp: an lạc nơi vô dục, an lạc nơi viễn ly, an lạc nơi vô tránh, an lạc nơi ái tận, an lạc nơi thủ tận, và an lạc nơi tâm không di động.

An lạc nơi vô dục

Niềm vui, niềm hạnh phúc ở giữa cuộc đời trần tục gọi là dục lạc, tức những niềm vui, niềm hạnh phúc có được khi thỏa mãn những nhu cầu tham muốn, dục vọng của con người. Niềm vui này, đối với bậc giác ngộ, bậc thánh trí thấy nó thô tục, thấp hèn. Cho nên, người tu học theo Phật pháp là hướng đến đời sống phạm hạnh, thanh tịnh, vui niềm vui vô dục, vô cầu, thanh tịnh, giải thoát.

Tôn giả Nhị Thập Ức cho biết, chúng ta không thể chỉ bằng niềm tinđạt được giải thoát, có được niềm vui nơi vô dục. Kinh ghi: “Bạch Thế Tôn, hoặc có người nghĩ rằng: ‘Hiền giả này do y tín tâm nên an lạc nơi vô dục.’ Người ấy không nên quán như vậy.” Vậy thì, bằng cách nào và cho đến khi nào mới có được niềm vui an lạc thật sự là vô dục? “Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuếngu si thì mới an lạc nơi vô dục.” Rõ ràng, căn bản của sự tu tập, của mọi pháp môn đều nhằm mục đích đoạn tận phiền não. Nếu căn bản phiền não tham, sân, si… chưa dứt trừ thì người xuất gia không thể có niềm vui được gọi là niềm vui nơi vô dục.

An lạc nơi viễn ly

Viễn lyxa lìa, là buông bỏ, là vượt thoát mọi chướng ngại trên con đường tu hành hướng đến Phật quả. Bản thể của pháp vô vi là không, tức là thoát ly mọi sự tướng của pháp hữu vi, cho nên có khi người ta gọi pháp vô viviễn ly. Người tu hành Phật đạo, điều quan trọng trước hết là phải xa lìa mọi tội ác từ nơi thân và nơi tâm, để thân tâm thanh tịnh, gọi là thân viễn ly và tâm viễn ly. Theo tổ sư Thế Thân chỉ dạy thì Bồ-tát muốn lìa xa những chướng ngại, tiến đến quả vị bồ-đề, cần phải thực hành ba pháp. Một là phải buông bỏ cái tâm chấp ngã, không tham trước tự thân, tức lấy trí tuệ để phá tâm chấp ngã, không mong cầu an lạc của tự thân. Hai là phải buông bỏ cái tâm bỏ mặc sự an vui của chúng sinh, tức là phải lấy tâm từ bi để bạt trừ mọi khổ đau của chúng sinh, để cho hết thảy chúng sinh được an vui. Ba là phải bỏ đi cái tâm ưa được cúng dường, cung kính, phụng dưỡng cái thân giả tạm này.

Một cách tổng quát, viễn lyxa lìa ác hạnh, buông bỏ dục vọng, khước từ hưởng thụ vật chất, từ bỏ chốn phồn hoa ồn ào, và quan trọng nhất là xa lìa phiền não. Do đó, những ai “thích được khen ngợi, muốn được cúng dường” mà bảo rằng có “an lạc nơi viễn ly” là điều không thực vậy!

An lạc nơi vô tránh

Vô tránh là dứt trừ sự tranh cãi. Công đức của người tu được xây dựng từ việc “nội cần khắc niệm chi công, ngoại hành bất tranh chi đức.” Bên trong luôn giữ gìn chánh niệm, bên ngoài luôn thể hiện đức tính không tranh đua với đời. Luận Du-già nói rằng, “phương tiện hoà hợp, cùng nhau làm Phật sự, ấy là vô tránh.” Cho nên, để phụng sự Tam bảo làm lợi lạc chúng sinh, hãy gạt bỏ đi cái bản ngã của riêng mình, cùng hoà hợplàm Phật sự. Tránh (phạn araṇā) là tranh luận, là tên gọi khác của phiền não. Lẽ nào người tu lại ưa chuốc lấy phiền não với những tranh luận, hơn thua?

An lạc nơi ái tận

Ái tận là nhổ tận gốc rễ tâm ái dục, đoạn tận không dư tàn gốc ái dục. Luận Du-già nói “ái tận là không mong cầu sự hiện hữu đời sau,” bởi cái gốc của sinh tử luân hồi chính là khát ái, cho nên đoạn tận cái nhân cho đời sau gọi là ái tận. Ái tận thì an lạc vào niết-bàn. Pháp cú Bắc truyền, kệ 550, ghi: “Như gốc cây sâu, chắc/ Dù chặt vẫn còn lên/ Tâm ái chưa trừ hết/ Đau khổ còn chịu thêm.” Vì vậy, “Đốn cây không tận gốc/ Chồi nhánh sẽ lại sanh/ Đốn cây luôn gốc, ngọn/ Tỷ-kheo vào niết-bàn” (Kệ 554).

An lạc nơi thủ tận

Do ái mà chấp thủ, cho nên ái tận thì thủ tận, thủ tận thì hữu không còn, hữu không còn thì già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não… cũng không còn. Thủ, upādāna, tức nắm giữ, ôm giữ lấy. Gồm có dục thủ, ôm giữ những thứ mình yêu thích. Yêu quê hương, đất nước mà dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan là điều mà cả thế giới lo lắng, sợ hãi bởi những kinh nghiệm thương đau do nó để lại từ quá khứ! Yêu tôn giáo đến cuồng tín, chấp nhận hy sinh bản thân mình và đồng loại để thoả mãn ước muốn, tham vọng xây dựng nhà nước tôn giáo của riêng mình là một thứ dục thủ đang nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố. Kiến thủ là ôm giữ những quan điểm, kiến thức, hiểu biết hẹp hòi, chống lại quy luật phát triển tự nhiên, chống lại khuynh hướng toàn cầu hoá, chống lại sự thật. Giới cấm thủ là chấp giữ những quy luật, những nguyên tắc, những giáo điều, những giới luật không đưa đến giải thoát và gây khổ đau cho mình, cho người, cho muôn loài. Giới cấm thủ trói buộc chính những con người ôm giữ nó vào những hình phạt dã man vô nhân tính. Ngã ngữ thủ, ātma-vādopādāna, là ôm giữ những lý luận về bản ngã, chấp giữ những lý thuyết hay quan điểm về bản ngã, linh hồn.

Khát áitrạng thái khao khát ở trong tâm, làm phát sinh ra ý niệm thương ghét; còn thủ là hành động thực tế tương ứng với ý niệm thương ghét đó, hoặc sẽ chiếm đoạt, hoặc sẽ ghét bỏ đối tượng mà mình yêu thích hay không yêu thích. Những hành vi của thân và khẩu như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời hung ác, nói lời gây mâu thuẫn, nói những lời dụ dỗ… đều được thúc đẩy bởi thủ. Có thể nói thủ chính là hành vi tạo nghiệp. Cho nên, thủ tận thì nghiệp cũng tận. Nghiệp tận thì hết sinh tử luân hồi!

An lạc nơi tâm không di động

Tâm không di độngthong dong tự tạivô nhiễm giữa cuộc đời ô trược, nhiễu nhương, biến loạn… Đối với các dục, như tài, sắc, danh, thực, thuỳ… tâm không hề dính mắc. Để tâm không dính mắc vào các dục thì phải phát khởi cái tâm không an trụ vào đâu cả, phải để cái tâm vào chỗ không (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Kinh Đại không, nói: “Tỳ-kheo hãy bằng nội ngoại không thành tựu an trụ. Vị ấy sau khi nội ngoại không thành tựu an trụ, tâm không di động, hướng đến gần, được lắng trong, an trụ, giải thoát” (Trung A-hàm, kinh số 191). Với cái tâm như vậy, Tôn giả Nhị Thập Ức “ví như núi đá, gió không lay nổi. Tức là đối với các pháp sắc, thanh, hương, vị, thân xúc, những pháp khả ái và không khả ái… không thể làm cho tâm lay động!

Tóm lại, để có được đời sống “an lạc nơi sự an lạc của bậc Thánh, an lạc do vô dục, an lạc do viễn ly, an lạc do tịch tịnh, an lạc do chánh giác, an lạc phi vật dục, an lạc phi sanh tử”, chúng ta phải dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si! Đó chính là kinh nghiệm của thầy Nhị Thập Ức, người vốn là nghệ sĩ chơi đàn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2505)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2042)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2483)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1824)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1908)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2195)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2718)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1638)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1554)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1740)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1579)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2162)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2313)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2009)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1807)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1718)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1906)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1643)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2605)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1761)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2117)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2099)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2431)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1746)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1922)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1804)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 1974)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2543)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3575)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2225)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2244)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1623)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1924)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2271)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2262)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2106)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3053)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2085)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2480)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2005)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1928)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2140)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2418)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 1991)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2396)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2334)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2915)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1998)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1900)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2215)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant