Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Sở Trụ Tâm

10 Tháng Hai 202119:59(Xem: 3832)
Vô Sở Trụ Tâm
VÔ SỞ TRỤ TÂM

HT. Thích Thiện Đạo

Dây Trói Bền Chắc Nhất

Cuộc pháp thoại giữa Đức PhậtTrưởng lão Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang Bát Nhã là một pháp thoại sâu sắc đầy tính gợi mở, được đánh giá như là một tham luận cốt lõi cho những ai muốn vượt thoát ngục tù ngã chấp, chứng đắc an lạc.

Chúng sanh do vô minh tích lũy đã sản sinh ra tà kiến, từ tà kiến sinh ra ngã chấp, từ ngã chấp tạo nên ngục tù kiên cố giam hãm chúng sanh trong vô lượng kiếp. Phá vỡ ngục tù ngã chấp là hoạt dụng của kinh Kim Cang Bát Nhã.

Kim Cang Bát Nhã nói cho đủ là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Kim Cang hay Kim Cương là chất cứng khó phá vỡ, ở đây dụ cho ngã chấp của chúng sanh rất khó đoạn trừ. Bát Nhã Ba La Mậttrí tuệ siêu việt, tuệ giác hoàn hảo.

Tính kiên cố bất khả hoại của ngã chấp chỉ có trí tuệ siêu việt, tuệ giác hoàn hảo mới có khả năng phá vỡ đoạn trừ. Cho nên ta có thể khẳng định mà không e dè rằng: Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mậtbản kinhĐức Phật xác nhận chỉ có tuệ giác siêu việt mới có khả năng đoạn trừ rốt ráo bệnh ngã chấp của chúng sanh. Nội dung kinh thâm sâuphong phú biết chừng nào.

Trưởng lão Tu Bồ Đề sau khi đã tiếp nhận rốt ráo thâm nghĩa của kinh Kim Cang Bát Nhã, tâm can rung động, rơi lệ bật khóc mà thưa rằng:

-Kính bạch Đức Thế Tôn, từ khi theo Đức Thế Tôn hành đạo, đạt được trí tuệ tối thắng, con chưa từng nghe được kinh nào chứa đựng nghĩa lý thâm sâu như kinh này. Con nghĩ rằng, nếu có người nào được nghe kinh này bằng đức tin kiên cố trong sáng, chắc chắn người đó sẽ nhận chân được thật tánh của các pháp nhưkhông tướng tuyệt đối, và người đó sẽ trọn thành công đức hy hữu.

Biết duyên đã hợp, thời đã đến, Đức Thế Tôn ân cần chia sẻ với Trưởng lão Tu Bồ Đề:

-Này Trưởng lão Tu Bồ Đề, ông hãy lắng lòng mà nghe, hôm nay Như Lai sẽ vì ông cũng như vì chúng sanh ở đời vị lai mà nói pháp Trụ Tâm. Nếu có người thiện nam tín nữ nào phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì họ trụ tâm ở đâu, và bằng cách nào để chuyển đổi tâm của họ. Trưởng lão nên nhớ kỹ: Đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì phải trên nền tảng Vô Thượng Bồ Đềtrụ tâm, mà chuyển đổi tâm. Bởi vì sao, vì Vô Thượng Bồ Đềtối thắng, là rốt ráo, là bất thoái chuyển, là Niết Bàn tịch tịnh. Ngoài Vô Thượng Bồ Đề, không có chỗ nào hiệu quả hơn để trụ tâmchuyển đổi tâm.

Này Trưởng lão, đối với tất cả các pháp hữu vi, hành giả không nên dính mắc vào bất cứ pháp nào, vì các pháp hữu vi đều hư vọng giả dối, không bền chắc. Nếu hiểu tường tận các tướng đều do duyên hợp, không thực có, không tự ngã, là giả tướng, là không bền chắc, tức là thấu rõ được thực tướng các pháp chínhkhông tướng, là như thật tướng.

Lại nữa này Trưởng lão, đã biết các pháp đều không thật có, cho đến các pháp hành như sắc, thanh, hương, vị, xúc cũng đều do ngã chấp mà sinh ra. Đã do ngã chấp thì có nhân ngã bỉ thử, thăng trầm, đắc thất, ái ố…

Để thấu suốt và nắm vững chắc nghĩa lý đã giải bày ở trên, hành giả cần quán sát sâu xa tường tận rằng: Các pháp hữu vi đều như là chiêm bao, ảo thuật, sương mai, ánh chớp.

Như Lai cũng thường nhắc nhở các vị: Đừng vin vào hình tướng bên ngoài mong gặp được ta, cũng đừng dựa vào ân thanh dẫn dụ mà mong tìm cầu được ta. Nếu người nào chỉ biết lấy sắc tướng âm thanh để mong tìm biết ta, thì kẻ đó đã ứng dụng sai pháp, chắc chắn không thể gặp được Như Lai như thật nghĩa.

Các vị không nhớ Như Lai thường nói rằng:

-Cụ túc sắc thân tức phi cụ túc sắc thân.
-Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.

-Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
-Ưng ly nhất thiết tướng tức đắc A nậu Đala Tam miệu Tam Bồ đề.

Này Trưởng lão, với nghĩa lý sâu xa như trên, không mấy ai có thể tiếp nhận được, mà chỉ có các hành giả đủ trình độ thâm sâu thượng thừa mới lãnh hội rốt ráo.

Lại nữa này Trưởng lão, như có hành giả trong khi thực hiện các pháp hànhtâm không vướng mắc vào đâu cả, Như Lai nói phước đức của các vị đó không thể nghĩ bàn. Vì sao, vì không gian bao la không thể đo lường được, thì phước đức của hành giả vô trụ tướng cũng rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế.

Như Lai nói Vô Trụ Tướng Tâm tức là tâm thanh tịnh, tâm vô trước, tâm vô sở hữu, tức là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Các vị cứ y lời Như Lai nói mà trụ tâm, mà chuyển đổi tâm. Vô Thượng Bồ Đềtối thắng, là rốt ráo, là chánh giác như thị, không có pháp nào rốt ráo hơn để trụ tâm.

Trưởng lão Tu Bồ Đề bạch Phật: Kính bạch Đức Thế Tôn, sau khi nghe được pháp thâm sâu vi diệu từ kim khẩu của Đức Thế Tôn, tâm con vô cùng hoan hỷ an lạc như chưa từng có. Chúng con xin nguyện sẽ tu tậphành pháp trên nền tảng lời dạy của Đức Thế Tôn. Thành tâm kính lễ Đức Thế Tôn

(Trích Tạp chí Phật Học Từ Quang Số 35)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 768)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1088)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1263)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1331)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 749)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 933)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 977)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 988)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 946)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 874)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1000)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1152)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 961)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1363)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1343)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1295)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant