Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhẫn nhụcAn phận

29 Tháng Ba 202119:56(Xem: 2880)
Nhẫn nhục và An phận

HUYỀN TRANG

BÀI HÀM THỤ SỐ 3 - NHẪN NHỤC

Thiện Thành – Văn Sang

Chúng Quảng Đức 1

 

Câu Hỏi Luận Văn (1000 words / 1000 từ) Theo quan điểm của anh chị, Nhẫn nhụcAn phận khác và giống nhau chỗ nào? Quý anh chị chia sẽ kinh nghiệm Người Huynh Trưởng thực hành Hạnh Nhẫn Nhục như thế nào trong đời sống và sinh hoạt GĐPT? 

"Nhẫn nhục/nại hạnh tối cao,

Niết bàn quả tối thượng” (Pháp Cú 184)

‘Khanti’ là chữ Pali dịch sang tiếng Việt là nhẫn nhục hay nhẫn nại. Nhẫn nhục/nại là pháp môn thứ 3 trong Lục Độ Ba La Mật, mà một vị đang hướng nguyện về quả vị Bồ Tát, phải tu tập một cách rốt ráo viên mãn [1].  Pháp môn tu nhẫn nhục/nại là con đường đạo cao cả thứ nhất, là hạnh tối cao và sẽ đạt được cảnh giới tối thượng thanh tịnh như ghi lại trong kinh Pháp Cú ở trên.  Là một vị huynh trưởng GĐPT Việt Nam với hạnh nguyện độ tha, với hạnh nguyện đào tạo thế hệ trẻ tại Hoa Kỳ để trở thành Phật tử chân chính góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật Giáo thì chúng ta phải biết hạnh nhẫn nhục/nại và cần phải thực hành nhẫn nhục/nại nhiều hơn những vị khác nữa để được bảo vệ thiện phápý nguyện độ tha của chúng ta sớm phần viên mãn cho dù phải đối đầu với đau khổ, nghịch cảnh, những lời nói trái tai, hành động gai mắt, và những khó khăn khác.

Sự nhẫn nhục/nại theo ý nghĩa của Phật Giáo được phân tích ra làm bốn trường hợp [2]. Một là nhẫn nại với sự vất vả khó khăn. Đó là nhẫn nại với sự mỏi mệt, khó khăn vất vả, nhẫn nại với sự đói, sự khát, sự lạnh, sự nóng trong khi phối hợp với công ăn việc làm để được thành tựu viên mãn, nhẫn nại một cách kiên cường bất khuất đối với mọi chướng ngại và bao sự vất vả. Hai là nhẫn nại với khổ thọ. Đó là nhẫn nại với sự ốm đau bất an bằng cách không thể hiện triệu chứng đau đớn hoặc khó chịu một cách quá mức làm thành tác nhân cho người thân cận hoặc người chăm sóc bực bội khó chịu hoặc khổ tâm trong việc chăm sóc. Ba là nhẫn nhục/nại với sự phẫn nộ. Đó là nhẫn nhục/nại với lời nhạo báng và chửi mắng của người khác. Một khi ta sống chung với nhau trong tập thể đông người thì thường có sự va chạm về hành động và lời nói. Nếu không có sự nhẫn nhục/nại thì sẽ phát sinh oán giận, đấu khẩu và gây tổn thương tổn hại cho nhau, sẽ làm tiêu hoại đi tình bạn và khiến thêm kẻ thù. Bốn là nhẫn nại với mãnh lực phiền não.  Đó là nhẫn nại với đối tượng hoặc vật thể dẫn đến sự quyến rũlôi cuốn làm phát sanh ái luyến, tham đắm, sân hận, si mê. Sự quyến rũ làm cho phát sinh sự ưa thích, đắm say và phóng dật. Nhẫn nại này sẽ làm cho tâm trí chánh niệm và không chạy theo mãnh lực của những phiền não.

Theo quan điểm của em, thì Nhẫn nhụcAn phận có phần giống nhau và có phần khác nhau.  Sự nhẫn nhụcAn phận giống nhau qua ý nghĩa là tự kiềm chế bản thân đối với sự việc hiện bày trước mắt, ví dụ như bị người chửi mắng mình, nhưng mình vẫn kiềm chế được. Sự kiềm chế này gìn giữ chúng ta được ở trong phần điềm tỉnh thiện hảo hơn, không sân hận dễ dàng hơn. Hoặc gìn giữ chúng ta được tinh thần thoải mái hơn khi đối mặt với sự vất vả khó khăn trong công việc nặng nhọc. Người đời thường gọi “an phận thủ thường”.  Đó là phần giống nhau của sự nhẫn nhụcan phận.

Phần khác nhau của sự nhẫn nhụcan phận là phần tiến thủ.  Người “an phận thủ thường” là người thiếu chí tiến thủ, người thiếu ý chí thay đổi vận mệnh của mình. Nhưng người nhẫn nhục/nại lại là người có ý chí thay đổi vận mệnh của chính mình. Người biết nhẫn nhục/nại là người sẽ đạt được cảnh giới tối cao thanh tịnh và dễ dàng đạt được thiện pháp. Nhẫn nhục/nại để cho thoát khỏi hoàn cảnh bất thiện, ví dụ như người nghèo khổ nhưng lại nhẫn nại với công việc nặng nhọc để được thăng tiến, nâng cao vị trí của mình lên chỗ tốt đẹp hơn. Nhẫn nại để thay đổi hoàn cảnh tốt đẹp hơn, ví dụ như nhẫn nhục nghiên cứu học hỏi để có được kiến thức, có được sự hiểu biết mới lạ và tốt hơn; hoặc nhẫn nhục tu tập ngồi thiền để diệt trừ phiền não và thanh lọc tâm thức được thanh tịnh.

Qua kinh nghiệm trong đời sống gia đình của em, của một người chồng và người cha, thì nhẫn nhục/nại với vợ con rất quan trọng cho sự hạnh phúc của gia đình.  Vì người chồng, người cha thường có sự đòi hỏi cao (high expectation) về vợ con mình trong công việc làm và học đường; ví dụ như vợ phải nấu ăn ngon, phải làm việc nhà, việc hãng tốt, và con phải học hành, làm việc tốt.  Tất cả phải làm tốt và giỏi giang mọi việc và một khi người chồng, người cha không thấy được những kết quả tốt về những điều đó với vợ con mình, thì thường dễ dàng nóng giận, lớn tiếng với vợ con. Nên, một người chồng, một người cha nhất định phải biết nhẫn nhục/nại với vợ con cho dù ở hoàn cảnh nào, để có đuợc một gia đình hòa hợp và êm đẹp.

Nhẫn nhục cũng rất quan trọng trong đời sống tại hãng công sở việc làm và trong xã hội.  Chỉ có nhẫn nhục mới có thể tránh được những mâu thuẩn, tranh cãi, hiểu lầm không cần thiết.  Chúng ta phải hiểu thấu suốt rằng, nhẫn nhục để đạt được kết quả tốt, và cơ hôi cho thăng tiến, cho tương lai.  Ví dụ như những người đồng nghiệp cố tình dồn ta vào thế kẹt (chuyện rất bình thường tại nhiều hang công sở tại Hoa Kỳ), thì chúng ta phải nhẫn nhục để tìm cơ hội tiến thân. Thời gian sẽ cho chúng ta cơ hội. 

Thực hành hạnh nhẫn nhục/nại trong khi sinh hoạt với GĐPT cũng là điểm rất quan trọng cho sự thịnh suy của tổ chức Áo Lam và là sự tu tập hạnh độ tha của một người Huynh Trưởng, với hạnh nguyện giáo dụcđào tạo tuổi trẻ trên xứ sở Hoa Kỳ này. Chúng ta có thể thấy được hạnh nhẫn nhục của chúng ta rất rõ ràng một khi có buổi họp về những buổi tổ chức như trại huấn luyện, trại hè của đơn vị, chương trình văn nghệ, hay hội xuân.  Vì trong những buổi tổ chức đó có sự khác biệt về ý kiến, phương thức, và mặt mũi nên dễ gây ra sự phản ảnh của sự trao đổi.  Ví dụ như nhóm huynh trưởng trẻ nghiêng về phát triển (progressive group) sẽ dễ dàng biểu lộ sự bất đồng ý kiến với nhóm huynh trưởng bảo thủ (conservative group). Nhóm nào cũng nghĩ ý kiếnphương pháp của nhóm mình là tốt hơn nên tranh cãi rất nhiệt huyết. Thường còn một hai nhóm trong tổ chức chúng ta không làm nhưng hay trách móc tranh cãi lớn tiếng trong những buổi tổ chức trên (trong đơn vị và miền). Nếu chúng ta thiếu nhẫn nại để lắng nghe thì dễ dàng gây gổ và đưa tổ chức Áo Lam chúng ta xuống đà suy thoái.

Người Huynh trưởng phải có được sự nhẫn nhục/nại như bốn sự nhẫn nại nói trên thì thường thành đạt một cách viên mãn trong tất cả mọi sự việc, được gặt hái sự an vui và lợi lạc trong đời sống.  Người huynh trưởng có được sự nhẫn nhục/nại này thì thường tránh khỏi việc tranh cãi và không có sự oan trái kinh sợ với một ai. Bốn điều nhẫn nhục/nại như vừa đề cập bên trên, được xếp thành một Thiện Hạnh quan trọng, nhằm hỗ trợ cho việc giáo dục tuổi trẻ trong tổ chức GĐPT thêm viên mãn, công ăn việc làm được bền vững và đạt thành kết quả lợi ích. Tất cả đều phải có sự nhẫn nhục/nại làm thành năng lực hỗ trợ cho việc độ thagiáo dục tuổi trẻ tại Hoa Kỳ. Nếu thiếu mất đi phẩm hạnh nhẫn nhục thì những việc đào tạogiáo dục thanh thiếu đồng niên và công ăn việc làm khó phần thăng tiến dễ dàng, tệ hơn là có thể bị đình trệ hoặc phải bị hủy bỏ. Vì vậy Đức Phật giảng thuyết Hạnh Nhẫn Nhục/Nại thành điều kiết tường trọng yếu, là con đường tăng trưởng tiến hóa của đời sống.


Tài liệu nghiên cứu

  1. “Lục Độ Vạn Hạnh,” Thầy Thích Nguyên Siêu
  2. “Kinh Kiết Tường,” Sư Sán Nhiên giản
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2208)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1707)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2020)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1721)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1719)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1890)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1903)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1557)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1729)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2065)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1815)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2380)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1712)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1711)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1672)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2118)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1943)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2083)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1624)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2237)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1594)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1754)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1818)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1655)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2399)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2114)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2059)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1862)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2213)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1791)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1911)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2141)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1674)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1934)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1928)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2146)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1921)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1763)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1748)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1750)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1860)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2153)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1706)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1679)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2245)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1952)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1772)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2347)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1950)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant