Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quê Hương Sinh Thành

06 Tháng Tư 202119:05(Xem: 3763)
Quê Hương Sinh Thành
QUÊ HƯƠNG SINH THÀNH
 
Nguyên tác: Rising from Obscurity
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

5

 

VƯƠN LÊN TỪ NƠI HẺO LÁNH

Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng. Ngài nói chuyện với hàng nghìn người mỗi năm và đã viết hàng chục quyển sách bán chạy nhất về quê hương của ngài, cuộc sống của ngài, tôn giáo niềm tin của ngài, khí hậu thế giới, và các vấn đề thế giới. Ngài đã được cấp bằng danh dự từ nhiều trường đại học, và đức tướng của ngài đã được công nhận một cách rộng rãi. Tuy nhiên, “vị tu sĩ đơn giản” đã bắt đầu cuộc sống trong bóng tối như Lhamo Thondup, người con thứ tám được sanh ra trong những gia đình nông dân nghèo trong một làng quê nhỏ bé ở một vùng xa xôi hẻo lánh của Tây Tạng.

TAKTSER, TÂY TẠNG

Ở vùng đông bắc lịch sử của Tây Tạng là tỉnh Amdo, và gần góc đông bắc của tỉnh đó, chỉ cách vài dặm với biên giới Trung Hoa, là làng Taktser, có nghĩa là “Cọp Gầm” trong tiếng Tây Tạng. Vào lúc Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sinh ra trong năm 1935 (theo lịch Tây Tạng là năm Lợn Gỗ). Amdo bị kiểm soát bởi một lãnh chúa Hồi giáo liên minh với Trung Hoa, cho nên một số tài liệu ghi nơi sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma là tỉnh Thanh Hải thay vì tỉnh Amdo của Tây Tạng. Tuy nhiên, người Tây Tạng, luôn luôn xem Amdo là một bộ phận của quê hương họ và khằng định Đức Đạt Lai Lạt Ma là người Tây Tạng. Ngài, dĩ nhiênđồng ý.

Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, “[Taktser] là một làng nhỏ và nghèo nằm trên đồi nhìn xuống một thung lũng rộng.  Những cánh đồng của nó không có người định cư hay gieo trồng mà chỉ được chăn thả bởi những người du mục. Lý do cho việc ấy là sự bất thường của khí hậu của vùng này. Trong thời thơ ấu, gia đình tôi là một trong khoảng hai mươi gia đình sống bấp bênh từ mãnh đất đó.” Cha mẹ của ngài, Choekyong và Diki Tsering, trồng lúa mạch, kiều mạch, và khoai tây trên vùng đất đầy sỏi đá. Họ cũng nuôi ngựa, cừu, dê và một vài con gà, con dzomos, là con thú lai giữa con yak và bò, và một con bò.  Lúa mạch họ trồng, khi rang và xay thành bột mịn, trở thành tsampa, một thực phẩm chính trong chế độ ăn uống của người Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn ăn tsampa trong điểm tâm mỗi ngày, trộn nó với trà, sửa, hay sửa chua.

Gia đình Đức Đạt Lai Lạt Ma sống trong một ngôi nhà điển hình, được xây dựng bởi đá và bùn, sơn trắng, có mái ngói. Trước nhà là khoảng sân. Một cột cờ treo những lá cờ nhiều màu sắc, với những lời cầu nguyện của người Phật tử Tây Tạng. Đặc trưng đặc biệt của ngôi nhà là hệ thống máng xối, những đoạn khoét của các nhánh cây bách xù – mà sau này đóng vai trò chính trong việc xác định Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trong tự truyện Tự Do Trong Lưu Đày, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã diễn tả căn nhà của gia đình ngài:

Bên trong là sáu phòng; một nhà bếp, nơi chúng tôi dành hầu hết thời gian của mình khi ở nhà; một phòng cầu nguyện với một bàn thờ nhỏ, nơi chúng tôi tập trung để cúng dường lúc bắt đầu mỗi ngày; phòng cha mẹ tôi; một phòng để dành cho khách đến thăm; một kho để thức ăn dự trử; một chuồng bò. Không có phòng ngủ cho trẻ con chúng tôi. Như một em bé, tôi ngủ với mẹ tôi; sau này, trong nhà bếp, gần lò nấu ăn.

Cuộc sống ở cao nguyên Tây Tạng khô cằn, gió lộng là khó khăn. Không phải mọi đứa trẻ đều sống sót. Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh mười sáu lần. Sống còn chỉ bảy đứa trẻ. Đức Đạt Lai Lạt Ma được sinh ra lần thứ tám, và là người thứ năm sống sót. Khí hậu cũng làm Tây Tạng là một nơi rủi ro để gây dựng một gia đình. Mặc dù khu vực chung quanh Taktser là nông nghiệp, nhưng chỉ có ít mưa. Thông thường, mưa rơi xuống là mưa đá, tạo ra nạn đói. Theo mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, gia đình ngài sống còn, đôi khi hàng năm nhờ đậu lăng, đậu xanh và lúa gạo của những tu sĩ từ tu viện Kumbum gần đó cung cấp.

LHAMO THONDUP RA ĐỜI

Vào những năm 1930, Tây Tạng không có đường tráng nhựa, nên việc đi lại bằng đôi chân hay trên lưng ngựa. Tiền tệ không phổ biến ở vùng xa xôi hẻo lánh, cho nên việc mua bán chủ yếu là trao đổitrao đổi vật thực cho những thứ khác hay làm công. Thị trấn gần nhất, Siling, cách đó ba giờ đồng hồ bằng đi ngựa, và cha của Đức Đạt Lai Lạt Ma đôi khi cởi ngựa đến đó để trao đổi những gì ông đã trồng trọt cho những vật thực khác như trà, đường, bông vài, dụng cụ hoặc có khi là một con ngựa.

Ba năm trước khi Lhamo Thondup sinh ra thì đặc biệt khó khăn đối với gia đình. Vào thời gian ấy không có mưa thông thường – chỉ có mưa đá. Mùa màng của họ thường bị tàn phá. Mặc dù người cha rất thông thạo về ngựa, nhưng tất cả các con ngựa đều nổi điên, lăn lộn trong nước uống của chúng và không ăn. Cổ chúng cứng đơ, chúng đi cà nhắccuối cùng mười ba con ngựa lăn ra chết cả. Người cha cảm thấy hổ thẹn vì đó là trách nhiệm của ông, nhưng người ta không bao giờ xác định được chúng bệnh gì. Hai tháng trước khi Lhamo Thondup ra đời, cha của ngài cũng trở bệnh rất nặng và nằm liệt giường. Khi đứng lên, ông cảm thấy chóng mặt và ngất xỉu. Mỗi lần đi ra ngoài, ông thấy hình tượng cha mẹ đã chết của ông. Ông không ngủ vào ban đêm, làm vợ ông thức giấc, và làm bà khó khăn làm việc vào ban ngày.

Một tháng trước khi đứa trẻ ra đời, Diki Tsering đã có một giấc mơ lập lại nhiều lần. Bà thấy một con rồng xanh dương và hai con sư tử xanh lục bay trên không. Trong hồi ký, Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Tôi, bà viết,

Chúng cười với tôi và chào tôi trong phong cách truyền thống của Tây Tạng: hai bàn tay, đưa lên trán. Sau này tôi được nói lại rằng con rồng là Đức Thánh Thiện [Đạt Lai Lạt Ma thứ13], và hai con sư tử là Nãi Quỳnh Hộ Pháp [Nechung Oracle – những vị phát biểu trong trạng thái xuất thần của Tây Tạng], chỉ Đức Thánh Thiện đường tái sanh. Sau giấc mơ của tôi, tôi biết rằng con trai của tôi sẽ là một vị lạt ma cao cấp nào đó, nhưng không bao giờ trong những giấc mơ cuồng nhiệt của tôi mà tôi nghĩ đứa con ấy sẽ là Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Vào ngày 6 tháng Bảy năm 1935, buổi sáng khi Lhamo được sinh ra, người cha rời giường trước khi mặt trời mọc, hoàn toàn khỏe mạnh. Khi ông biết rằng vợ ông đã sinh ra một bé trai, ông nói với bà rằng họ nên cho nó làm tu sĩ. Sau khi sanh, trời mưa đổ xuống và không có thêm người chết hoặc những sự kiện kỳ quặc khác xảy ra.
6
















Một cách lịch sử thì quốc gia Tây Tạng không còn tồn tại trên bản đồ thế giới. Từ khi nó bị Cộng Sản Trung Hoa xâm lược năm 1949, nó bị sáp nhập vào các tỉnh khác nhau của Trung Hoa. Khi Tàu Cộng  đặt ra Khu Tự Trị Tây Tạng
(TAR), chính quyền được dựng lên năm 1965, vốn chỉ còn ít hơn một nửa đất đai lịch sử của Tây Tạng. Tây Tạng lịch sử - những gì người Tây Tạng ngày nay vẫn liên hệ đến như Tây Tạng – vốn bao gồm 965,000 dặm vuông (2,5 triệu km vuông) – tương đương với Tây Âu hay các bang phía Tây Hoa Kỳ từ sông Mississippi. Và tuy thế, mặc dù địa lý quan trọng của khu vực này đối với Á châu, nhưng người ta chỉ biết một ít về nó cho đến tương đối gần đây, chủ yếu cũng bởi vì sự xa xôi hẻo lánh và khó tiếp cận của nó.


KÝ ỨC TUỔI THƠ

Như một đứa bé, trước khi được xác nhận bởi những lạt ma Tây Tạng, Lhamo không bao giờ cho thấy bất cứ sự sợ hãi đối với những người xa lạ và cố nài được ngồi ở đầu bàn. Mẹ ngài sau này diễn tả sự đặc biệt của đứa con trai bà: 

Lhamo Thondup đã khác biệt với những đứa con khác của tôi ngay từ đầu. Ngài là một đứa bé ủ rũ thường ở trong nhà một mình. Ngài luôn luôn khăn gói áo quần và một ít đồ đạc của ngài. Khi tôi hỏi là ngài đang làm gì, thì ngài trả lời là ngài đang chuẩn bị để đi Lhasa [thủ đô của Tây Tạng] và sẽ đem tất cả mọi người cùng đi với ngài. Khi chúng tôi đi thăm những người bạn hay thân nhân, ngài không bao giờ uống trà ở bất cứ ly tách nào ngoài chiếc ly của tôi. ngài không bao giờ để bất cứ người nào ngoài tôi đụng chạm đến chăn mền của ngài và không bao giờ để bất cứ nơi nào khác hơn là bên cạnh chăn mền của tôi. Nếu ngài đi ngang một người hay gây gỗ, thì ngài sẽ cầm một cây gậy và cố đánh người đó. Nếu có người khách nào của chúng tôi châm một điếu thuốc, ngài sẽ nổi lên cơn thịnh nộ. Những người bạn của chúng tôi đã nói với chúng tôi rằng vì một lý do không thể giải thích được nhưng họ sợ ngài, tế nhị trong hàng năm như vậy. Tất cả những điều này là khi ngài vừa hơn một tuổi và hầu như không thể nói chuyện. Một ngày nọ ngài nói với chúng tôi là ngài đến từ thiên đàng.

Những ký ức của Đức Đạt Lai Lạt Ma về cha mẹ của ngài vẫn rõ ràng. Cha ngài, qua đời năm 1947, là một người đàn ông nghiêm khắc, cao vừa phải, với một bộ ria rậm và dễ nóng. Mẹ ngài, qua đời năm 1981, rất được tôn kính. Ngài diễn tả bà như “không nghi ngờ gì nữa là một người ân cần nhất mà ngài từng biết. Bà thật sự tuyệt vời và được yêu mến. Tôi hoàn toàn chắc chắn, bởi tất cả những người biết bà.” Trong gần ba năm, Lhamo Thondup và gia đình sống bình thường hằng ngày. Ngài nhớ rằng ngài thích đi vào chuồng gà và lượm trứng cùng mẹ ngài. Khi xong việc, mẹ ngài đi vào nhà, nhưng ngài vẫn ở đó, ngồi bên một ổ gà, làm những tiếng gà mái kêu. Ngài nhớ lần đầu tiên thấy con lạc đà, nó to lớn và đáng sợ như thế nào đối với ngài. Ngài cũng nhớ việc thấy một đám con nít đánh nhau và chạy đến giúp đở những đứa bị thương.


Không có điều gì bất thường trong những năm ấy. Mặc cho những giấc mơ, dự đoán, và những sự kiện tốt lành quanh sự ra đời của đứa con trai của họ, cha mẹ ngài không bao giờ tưởng tượng rằng con trai của họ có thể là tái sanh của một người quyền lực nhất và được tôn kính nhất ở Tây Tạng – Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

                                                                  ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 13 VĨ ĐẠI
7

                                                                          ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 13


Những người Phật tử tin tưởng tinh hoa của mỗi cá nhân – “tâm linh” hay “thần thức” – được tái sinh vào một thân thể mới một khi thân thể trước chết đi. Họ tin tiến trình này tiếp tục hàng thế hệ cho đến khi cá nhân ấy đạt được Giác Ngộ - sự tỉnh thức hoàn toàn với ý nghĩa chân thật của sự sống. Vào lúc ấy cá nhân thành tựu niết bàn – sự hòa bình an lạc cứu kính – và không trở lại đời sống vật chất [của nghiệp lực mà là sự tái sinh của nguyện lực]. Vì các lạt ma tự nguyện hy hiến trong việc theo đuổi tâm linh, cho nên họ được mọi người xem như sở hữu những tâm thức “cũ” của những kiếp sống trước. Mỗi Đức Đạt Lai Lạt Ma được tin rằng có cùng tâm thức vốn hiện hữu trong chính Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất. Nhiều người cũng cảm thấy ngài là một hiện thân của Đức Quán Thế Âm, Bồ tát của lòng từ bi. Một vị Bồ tát cũng là một người nào đó sẽ tiếp tục tái sinh để giúp đở người khác thành tựu bản nguyện độ sanh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Thupten Gyatso, không giống như vị tiền nhiệm của ngài. Ngài nhìn xuyên suốt sự cô lập của Tây Tạngnhận ra tầm quan trọng của những quan hệ quốc tế. Ngài là Đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên du hành bên ngoài Tây Tạng – đến Mongolia, Trung Hoa, và Ấn Độ. Ngài hiện đại hóa Tây Tạng, thiết lập một hệ thống giáo dục thế tục, một kho vũ khí, một lực lượng phòng vệ, một hệ thống bưu điện, một lá quốc kỳ, và một bộ ngoại giao tinh vi hơn.

Đức Vĩ Đại thứ 13, như ngài được gọi, được là cho là có những tầm nhìn cho tương lai. Trong năm 1930, ngài nhìn thấy trước những đe dọa khủng khiếp cho Tây Tạng hai mươi năm kể từ lúc ấy. Ngài tiên đoán một giai đoạn khi “tu sĩ và tu viện sẽ bị tàn phá…[và] tất cả mọi người sẽ bị nhấn chìm trong một sự gian khổ rộng lớn và tràn ngập sợ hãi.” Trong năm 1932, Đức Vĩ Đại thứ 13 đã thực hiện một sự lựa chọn quyết liệt. Ngài quyết định viên tịch để cho vị tái sinh của ngài đủ trưởng thành để có những quyết định cần thiết khi những đe dọa đó xảy ra. Một số lạt ma cho rằng có sự kiểm soát như vậy đối với hơi thở của họ để họ có thể đúng là “tự ý” viên tịch.

Vào ngày 17 tháng 12 năm 1933, sau hàng tuần ngồi thiền im lặng, ngài Thupten Gyatso viên tịch, thọ năm mươi bảy tuổi. Thi thể ngài được bảo tồn trong phong cách truyền thống cho những lạt ma cao cấp.  Nó được nung trong bơ của con yak và muối, khuôn mặt ngài được phủ vàng, và ngài ngồi thẳng, mặt hướng về phía nam, trong một phòng thờ của Điện Potala, đại bản doanh của chính phủ Tây Tạng và là cung điện mùa đông của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Theo sự tin tưởng của Phật giáo Tây Tạng, tâm thức của ngài sẽ cư trú bốn mươi chín ngày ở Hồ Lhamo Lahtso ở phía nam Tây Tạng trước khi chuyển đến sự tái sinh mới.

 


DÒNG TRUYỀN THỪA ĐẠT LAI LẠT MA

Phật tử Tây Tạng tin rằng tất cả chúng sanh được tái sinh nhưng ở những cá nhân nào đó, được gọi là tulky, hay hóa thân, chọn trở lại hết lần này đến lần khác để giáo huấn những người khác thành tựu đạo quả như thế nào. Cao nhất trong những vị này là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mười ba Đức Đạt Lai Lạt Ma, mỗi vị là một tulku, đã ngự trị Tây Tạng cho đến lúc Lhamo Thondup sinh ra vào năm 1935. Gendun Drup, được danh hiệu Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất năm 1391. Khi ngài viên tịch năm 1474, những lạt ma cao cấp Tây Tạng đi tìm một đứa bé có tâm thức của Gendun Drup. Hóa thân của Gendun Drup được tìm thấy trong hài nhi tên Gendun Gyatso, sinh năm 1475. Sau sự viên tịch của Gendun Gyatso năm 1541, các lạt ma tìm ra Sonam Gyatso (1543–1588). Tiếp theo là Yonten Gyatso (1589–1616), Lobsang Gyatso (1617–1682), Tsangyang Gyatso (1683–1706), Kelzang Gyatso (1708–1757), Jamphel Gyatso (1758–1804), Lungtok Gyatso (1806–1815), Tsultrim Gyatso (1816–1837), Khendrup Gyatso (1838–1856), Trinley Gyatso (1857–1875), và cuối cùng là Thupten Gyatso, sinh ra năm 1876. “Gyatso”có nghĩa là đại dương trong Tạng ngữ, có nghĩa là chiều sâu và chiều rộng của tuệ trí.

 

TÌM KIẾM VÀ THỬ NGHIỆM ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 14


“Nóc Nhà của Thế Giới”


Khi người ta nghĩ về Tây Tạng, hầu hết là hình ảnh của những ngọn núi cao, phủ tuyết. Tây Tạng bao gồm những ngọn núi cao nhất của thế giới, kể ngọn núi cao nhất – ngọn Everest (Chomo Langma trong Tạng ngữ), cao 29,028 feet (8,848m). Trải dài gần như toàn bộ biên giới phía nam của Tây Tạng. Một đặc trưng khác ít được biết hơn của vùng đất xa xôi này là cao nguyên Tây Tạng, một vùng đất cao, gió lộng, chiếm phần lớn diện tích đất đai của Tây Tạng. Vì vùng núi Hymalaya và cao nguyên Tây Tạng, có độ cao trung bình —16,000 feet (4,880m)— nên nó cao hơn tất cả trừ những đỉnh núi Rocky cao nhất ở Bắc Mỹ.

Cao nguyên Tây Tạng rộng lớn cũng cung ứng như cội nguồn của nhiều dòng sông vĩ đại nhất của Á châu. Dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử chảy về hướng đông của cao nguyên Tây Tạng và xuyên Trung Hoa đến Biển Hoàng Hải và Biển Hoa Đông, một cách tương ứng. Dòng sông Ấn, sông Hằng, và sông Brahmaputra chảy về hướng nam từ Tây Tạng – qua Ấn Độ, Pakistan, và Bangladesh – trước khi đổ vào Biển Ả Rập, và Vịnh Bengal. Cuối cùng dòng Salween và Cửu Long chảy theo hướng đông nam Á châu và vào Ấn Độ Dương cùng Biển Đông Nam Á, một cách tương ứng. Cùng nhau, nguồn nước từ những dòng sông này vốn bắt nguồn từ Tây Tạng nuôi sống 40% dân số của thế giới


Sau khi Thupten Gyatso qua đời, các lạt ma bắt đầu tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ngay khi những dấu hiện xuất hiện. Một cách truyền thống, những ảo mộngđiềm lành hướng dẫn các lạt ma đến vị hóa thân tiếp theo. Dấu hiệu thứ nhất sau khi Thupten Gyatso viên tịch đã đến từ nhục thân của chính Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mặc dù, nhục thân của ngài được đặt hướng mặt về phương nam, nhưng đầu của ngài đã quay về phía đông bắc một cách kỳ bí. Do thế, các lạt ma đã tìm kiếm vị kế nghiệp ở hướng đông bắc.

Dấu hiệu tiếp theo trong hình thức của một ảo mộng đã đến từ một lạt ma cao cấp, Reting Rinpoché. Rinpoché là danh hiệu được ban cho những bậc thầy tâm linh. Nó có nghĩa là “Bậc Tôn Quý.” Reting Rinpoché đã thăm hồ thiêng Lhamo Lahtso và thấy những mẫu tự Tây Tạng Ah, Ka, và Ma nổi trên mặt hồ. Ngài chắc chắn Ah liên hệ đến tỉnh Amdo ở vùng đông bắc Tây Tạng. Ngài cũng thấy một ảo tượng của của một tu viện ba tầng với một mái ngọc lam và vàng kim và một ngôi nhà nhỏ với những chiếc máng nước mưa có hình thù kỳ lạ. Một đoàn tu sĩ được gửi tới Amdo. Sau bốn năm tìm kiếm, họ đã đến tu viện Kumbum, vốn cao ba tầng và có mái ngọc lam cùng vàng kim. Điều này, họ chắc chắn, biểu hiện cho Ka đến từ ảo tượng của của hồ nước. Gần đó, họ thấy một ngôi nhà với những máng xối làm từ cành cây bách xù. Bên trong, họ thấy một gia đình nông dân với cậu bé mới biết đi — Lhamo Thondup.

Lãnh đạo của đoàn, Khetsang Rinpoché, một tu sĩ cao cấp từ tu viện Sera gần Lhasa, cải trang thành một nông dân, tuy thế Lhamo chưa đầy hai tuổi vẫn chạy đến chào đón ông, và gọi, “lạt ma Sera, lạt ma Sera!” Các tu sĩ không nói gì. Họ ở lại đêm và cảm ơn lòng mến khách của gia đình, và họ rời đi sáng hôm sau. Họ trở lại ba tuần sau và một lần nữa ở lại với gia đình, quan sát đứa bé. Họ từ giả mà không cho gia đình biết mục đích của một trong hai chuyến thăm viếng.

Trong cuộc viếng thăm lần thứ ba, hai tuần sau, họ mang theo một chiếc bát, một chiếc trống lễ, một xâu chuỗi, và áo quần nào đó của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, cùng với những vật dụng tương tự mà không phải thuộc về ngài. Họ đưa chúng cho Lhamo để thấy hài nhi thích thứ nào hơn. Mỗi lần như vậy, đứa bé nhanh chóng chọn những thứ sở hữu của Đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm, và nói, “nó là của tôi. Nó là của tôi.” Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ lại một cách sống động một trong những thử nghiệm như vậy: “Khetsang Rinpoché mang theo hai cây quyền trượng khi ngài đi vào hiên nhà, nơi Lhamo … đang nô đùa. Rinpoché để hai cây quyền trượng ở trong một góc. Con trai của tôi đi tới những cây quyền trượng, đặt một cây nằm xuống và cầm lấy một cây khác. Ngài đập nhẹ cây quyền trượng vào lưng Rinpoché và nói của ngài và tại sao Khetsang Rinpoché lấy nó.”

Chi đến lúc ấy, các tu sĩ mới cho biết mục đích chính của họ — để xác định đúng hóa thân vị lãnh đạo quá cố của họ. Họ đã thử nghiệm vài ứng viên có thể trong vùng nhưng được thuyết phục đây là hài nhi mà họ tìm kiếm. Sau khi thăm hỏi Lhamo riêng tư trong ba giờ nữa, các tu sĩ nói với bà mẹ là con trai bà đã nói chuyện với họ, mà không khó khăn gì với phương ngữ Lhasa của chính họ. Ngài chưa bao giờ nghe phương ngữ đó lần nào.

Họ đã bị thuyết phục. Sau khi cho gia đình biết, họ đã gửi một sứ giả đến Lhasa để thông báo cho chính quyền lâm thời — quan nhiếp chính vương — rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đã được tìm thấy. Biết rằng việc này sẽ mất vài tuần để nhận được trả lời, nên họ đã quyết định rằng Lhamo nên đến tu viện Kumbum để được làm lễ nhập môn và bắt đầu việc tu tập của ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ lại, “Tôi được làm lễ nhập đạo trong một buổi lễ xảy ra vào lúc rạng đông. Tôi nhớ sự kiện này đặc biệt khi tôi ngạc nhiên vì bị đánh thức và mặc áo quần trước khi mặt trời mọc. Tôi cũng nhớ được ngồi trên một trên một chiếc ngai.” Như vậy đã bắt đầu cuộc hành trình đã đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt xa Tây Tạng.

Chờ Đợi Lâu tại Kumbum

Không có gì bất thường trong những ngày đó cho một nhi đồng rất nhỏ – một em bé khoảng hai tuổi – được thừa nhận đến những tu viện Tây Tạng để rèn luyện như những tu sĩ Phật giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ những tháng đầu tiên đó tại Kumbum như một thời gian đặc biệt phiền muộn cho cuộc đời của ngài vì cha mẹ ngài không có ở đó với ngài. Nhưng một vài nhân tố làm cho việc ở lại Kumbum của Lhamo hơi dễ dàng hơn để chịu đựng. Một người anh của ngài, Lobsang Samten, đã được xác nhận là một tulku sớm hơn, sự tái sanh của một lạt ma cao cấp, và đã được rèn luyện tại tu viện. Mặc dù Lobsang chỉ ba tuổi, nhưng ngài chăm sóc cho Lhamo, và họ trở thành không thể tách rời. Một việc khác vốn giúp cậu bé chập chửng trải qua thời gian này của việc chia cách là tính cách của vị thầy được chỉ định cho việc rèn luyện khởi đầu của ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ lại vị thầy ấy là một tu sĩ già rất ân cần, người an ủi ngài cũng như dạy dỗ cho ngài, đôi khi đắp ngài với áo choàng của thầy và ban cho ngài những đối xử đặc biệt. Cuối cùng, khi rõ ràng rằng Lhamo sẽ được đoàn tụ với cha mẹ của ngài ngay khi những chuẩn bị cho chuyến hành trình của ngài đến Lhasa được thực hiện, thì ngài có thể dễ dàng hơn trong việc chịu đựng sự cô đơn ngài.

8












Tu viện Kumbum

***

Trích từ The Dalai Lama (People in the News)

Bài liên hệ

Một Tu Sĩ Giản Dị

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1597)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1589)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1753)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1749)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1445)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1609)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 1946)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1697)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2256)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1587)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1599)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1552)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2008)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1826)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1966)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1519)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2121)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1482)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1745)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1631)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1688)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1525)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2282)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1997)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1949)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1761)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2109)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1690)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1811)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2024)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1545)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1806)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1793)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2030)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1790)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1641)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1633)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1638)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1752)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2043)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1606)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1584)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2146)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1849)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1634)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2207)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1829)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1923)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2133)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2423)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant