Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối Thoại Với “ Quỷ Vương Phiền Não”

12 Tháng Tư 202118:08(Xem: 3698)
Đối Thoại Với “ Quỷ Vương Phiền Não”

Đối Thoại Với “ Quỷ Vương Phiền Não”

Thiện Quả
Đào Văn Bình

hoa sen 1


Tại Kinh Thành có một vị cư sĩ, có thể nói là bậc “Thiên kinh vạn quyển”, viết không  biết bao nhiêu bài bình giảng về giáo lý, ăn chay trường, tụng kinh niệm Phật, qua tận Ấn Độ học Thiền. Nói tóm lại đây là bậc tu hành tới nơi tới chốn…thế  mà trong lòng vẫn cứ phiền não.

Phiền não ở đây là vẫn còn xao xuyến, lo âu về cái sống cái chết. Ngoài ưu tư chuyện gia đình, tiền bạc, lại còn mắc míu vào chuyện đời, chuyện cộng đồng, chuyện làng, chuyện nước và thậm chí cả chuyện thế giới. Chuyện đá bóng World Cup cũng làm ông vui  buồn cả tháng trời. Trong những lúc ngồi Thiền, quán tưởng thấy mình tu hành như thế thật uổng công. Hơn ba chục năm vẫn là phàm phu cho nên theo lời dạy của Đức Phật, ông viết tên của Đức Phật Bất Động Trí Quang trên một tờ giấy, đảnh lễ và tha thiết cầu xin Đức Phật chỉ bảo cho phương tiện giải trừ phiền não. Một ngày kia, trong lúc đang quán tưởng thì từ không trung có tiếng nói vang lên:

-Ta là Phật Bất Động Trí Quang. Ta hiểu được “căn bệnh” của ông. Muốn giải trừ căn bệnh này không gì hơn là nói chuyện với Quỷ Vương Phiền Não. Ta sẽ đưa Quỷ Vương Phiền Não tới gặp ông.

            Trong chớp mắt, từ trên không trung có tiếng nói vang vang cất lên:

-Chào cư sĩ. Tôi là Quỷ Vương Phiền não do Đức Phật Bất Động Trí Quang sai tới . Cư sĩ muốn  hỏi tôi chuyện gì?

- Dạ, tôi muốn ông giúp tôi đoạn trừ phiền não.

Từ trên không trung có tiếng cười lớn:

-Cư sĩ mời tôi đến để tìm cách đoạn trừ phiền não, vậy cư sĩ muốn giết tôi phải không?

            Nghe hỏi đùa như thế, vị cưlúng túng, nhưng cuối cùng không còn cách nào khác nên nói bừa.

-Dạ đúng vậy.

            Từ trên không trung tiếng của Quỷ Vương Phiền Não cất lên:

-Tôi vốn không có hình tướng, không hề hiện hữu trên thế gian này. Thế nhưng do chúng sinh tham-ái mê luyến vào cuộc sống này cho nên tôi mới có mặt. Tôi thống trị thế gian này từ khi có con người. Do đó muốn đoạn trừ phiền não thì phải hiểu tôi là ai. Tôi có mặt ở khắp hư không, ba đời, hiện tại, quá khứ, vị lai. Không nơi nào mà không có phiền não. Không nơi nào mà không có sự hiện diện của tôi. Tôi có thể vào trong cung vàng điện ngọc để não loạn vua chúa dù vua chúa ở Tử Cấm Thành hay có thiên binh vạn mã canh giữ. Tôi có thể vào trong chùa, trong tịnh thất, trong thiền đường để làm cho cao tăng, cư sĩ, vui buồn sướng khổ.  Tôi làm việc 24/24 giờ không bao giờ ngưng nghỉ. Điều đó có nghĩa là phiền não có thể nảy sinh bất cứ giây phút nào từ lúc con người sinh ra cho đến khi diệt mất, không trừ một ai.

-Khi cư sĩ khởi một niệm thương-ghét là tôi có mặt liền.

-Khi cư sĩ khởi một niệm ham muốn, dù ham muốn bất cứ cái gì thì tôi sẽ đến chào cư sĩ ngay.

-Khi cư sĩ thọ nhận một số tiền, một ân tình, một quà biếu…là tôi đã có mặt ở trước cửa nhà cư sĩ giống như một người giao hàng vậy.

-Khi cư sĩ khởi một niệm đúng-sai, chấp trụ vào Có - Không, thì bằng mọi giá tôi sẽ đến gặp cư sĩ ngay.

-Khi cư sĩ cầu mong cái gì. To lớn như cầu mong đắc quả, cầu mong trúng số, cầu mong giầu có. Nhỏ bé như cầu mong đội bóng mà cư sĩ yêu thích chiếm giải vô địch…thì tôi đã nằm ngay trong tim não của cư sĩ rồi.

-Khi cư sĩ thấy ai hơn mình mà khởi một niệm ghen ghét thì làm sao thoát khỏi tôi.

-Khi cư sĩ vui khi có ai khen mình, buồn khi có ai chê mình thì tôi sẽ gõ cửa nhà cư sĩ.

-Khi cư sĩ còn ham mê chức vụ, danh vọng, tăm tiếng tức là cư sĩ muốn tôi ngồi cùng bàn với cư sĩ.

            Nghe Ô. Quỷ Vương Phiền Não nói thế, vị cưbuồn rầu nói:

-Phiền não có đầy ở hư không, cái gì cũng gây phiền não cả, nếu nói như ngài thì chỉ có gỗ đá mới không có phiền não sao?

Quỷ Vương Phiền Não cười lớn, hỏi:

-Đức Phật có phải là gỗ đá không?

-Dạ thưa không?

-Hàng Bồ Tát, A La Hán có phải là gỗ đá không?

-Hoàn toàn không.

-Vậy tại sao các vị này không có phiền não? Thưa cư sĩ, mọi chúng sinh đều có thể đoạn trừ phiền não. Chỉ vì chúng sinh không biết cách làm mà thôi.

            Nghe tới đây vị cưđáp lại:

-Ngài trách chúng sinh như vậy là không đúng. Một số chư Tổ dạy rằng “Phiền nãoBồ Đề”. Nếu “Phiền não là Bồ Đề” thỉ chúng sinh cần gì tu hành, cần gì tìm cách đoạn trừ phiền não? Cứ sống khơi khơi, ngụp lặn trong phiền não là có Bồ Đề thôi. Vậy thì lỗi đâu phải tại chúng sinh?

            Nghe nói vậy Quỷ Vương Phiền Não cười lớn:

-Xin cư sĩ đừng hý luậnPhiền não là khổ đauBồ Đềgiác ngộ, an vui, giải thoát. Nếu “Phiền não là Bồ Đề” thì chẳng khác nào đám cưới là đám ma, mất tiền là được tiền, thi rớt là thi đậu, trí tuệngu si, bênh tật là sức khỏe, lêu lổng là tu hành! Nếu như vậy thì chư Phật, chư vị Bồ Tát ra đời để dạy dỗ chúng sinh phương pháp diệt khổ để làm gì? Xin chớ nói “Phiền nãoBồ Đề”. Tôi làm sao có thể ví với Phật, Bồ Tát, A La Hán và thánh tăng?

            Dường như bị thuyết phục bởi lý luận quá sắc bén của Quỷ Vương Phiền Não, vị cưthở dài nói:

-Tôi  tu hành công phu miệt mài hơn ba mươi năm, nhưng tại sao vẫn cứ phiền não? Tu như vậy mà không đúng cách sao?

            Nghe nói thế, Quỷ Vương Phiền Não lại cười lớn, nói:

-Cư sĩ chỉ tu tướng chứ không tu tâm. Tụng kinh niệm Phật, ăn chay, đi lễ chùa, thuyết giảng cho hấp dẫn nhiều người nghe vẫn là tu tướng. Chỉ có tu tâm mới đoạn trừ được phiền não. Tôi có thể gây phiền não cho Hằng Hà sa số chúng sinh nhưng không sao nhiễu loạn được các bậc tu hành như sau. Tất cả các bậc tu hành như thế này - tôi đều cúi đầu đảnh lễ.  

-Đối cảnh mà vô tâm.

-Ưng vô sở trụ.

-Niệm Phật nhất tâm bất loạn.

-Luôn luôn giữ gìn chánh niệm từng bước đi, từng hơi thở, từng động tác.

-Thấy mọi vật hiện ra trước mắt như hoa đóm giữa hư không, như một giấc chiêm bao, như coi màn tuồng diễn trên sân khấu.

-Dù không ngổi thiền mà đầu óc luôn luôn ở trạng thái Định.

-Thưa cư sĩ, các bậc tu hành như vậy nếu không là Phật thì cũng là Bồ Tát, A La Hán, thánh tăng hay thiền sư và tôi không thể nào nhiễu loạn họ được.

            Nghe tới đây, vị cưhốt nhiên đại ngộ, thấy mình như vừa ra khỏi cơn mê, bái vọng Đức Phật Bất Động Trí Quang rồi nói với Quỷ Vương Phiền Não rằng:

-Cám ơn ngài và tôi hy vọng sẽ không bao giờ gặp lại ngài nữa. Chào tạm biệt!

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 4/4/2021)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 920)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 948)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1141)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1248)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 964)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 949)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1321)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1466)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant