Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lan Man Về Một Chữ Buông

18 Tháng Tư 202118:57(Xem: 4485)
Lan Man Về Một Chữ Buông

Lan Man Về Một Chữ Buông

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Buông Bỏ Là Một Loại Trí Tuệ, Muốn Có Hạnh Phúc Phải Buông Bỏ. jpg

 

Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối, mệt mỏi vì bị áp lực trong cuộc mưu sinh, nhất là những người đã bị cuộc đời vùi dập bởi mãi trôi lăn trong vòng danh lợi, khổ đau vì tham vọng không đạt được, phiền não vì biết bao nhiều điều bất  ý trong cuộc sống. Áp lực cuộc sống cứ đè nặng trong tâm thức hầu như là thường trực thế nên bây giờ chúng ta thấy người ta hay đề cập đến vấn đề stress. Bị trôi theo vòng xoáy của thế gian nên con người cảm thấy quá mệt mỏi, chán chường muốn tìm cách thoát ra. Thế là đã có người mách thuốc để trị đó là HÃY BUÔNG XẢ, bây giờ đi đâu cũng nghe họ nói BUÔNG, gặp những vị thầy tu cũng nghe khuyên BUÔNG, gặp những nhà tâm lý học tư vấn cũng khuyên BUÔNG.

Thế nhưng nói thì dễ mà làm thì khó, cái khó không phải là khó buông mà khó ở chổ không biết nên buông cái gì và buông ra sao, buông như thế nào cho đúng. Ta khuyên người khác một chữ BUÔNG thì dễ nhưng nếu bị hỏi buông cái gì, làm sao để buông thì e rằng khó trả lời cho chính xác.

Thật ra buông bỏ là một chuyện rất quan trọng cho những ai muốn tìm cho mình một cuộc sống tỉnh tại, an lạc giữa cuộc đời tục lụy này. Trong giáo lý đạo Phật có hạnh xả ly tức buông bỏ mọi thứ dục lạc của thế gian. Đối với những vị tu sĩ xuất sĩ thì đã chọn con đường “xuất thế tục gia, xuất phiền não gia, xuất tam giới gia”, thực hành hạnh xã ly tất cả mọi dục lạc thế gian là một điều hầu như bắt buộc nếu muốn bước trên hành trình đến bến bờ giác ngộ. Rốt ráo là hạnh xả ly ba-la-mật giống như ngày xưa đức Phật buông xả tất cả mọi tiện nghi dục lạc của một bậc vương quyền để rồi một thân một mình tìm ra ánh sáng chân lý cứu muôn loài và qua ngài đã trải biết bao nhiêu nhọc nhằn gian khồ cuối cùng đã tìm ra ánh đạo vàng cứu chúng sanh thoát khỏi khổ đau, phiền não. Ngài đã buông bỏ tất cả để rồi ngài có tất cả, dĩ nhiên là cái có sau khi thành đạo là cái có vĩ đại của một bậc đại trí tuệ chứ không phải cái có của ngũ dục trong cuộc sống thế gian mà ngài đã có trước đây.  Đối với hàng phật tử tại gia chúng ta bị trói buộc trong cuộc sống thế tục với gia đình với xã hội với cuộc mưu sinh thường nhật nên vấn để buông xả để tìm sự an lạc trong cuộc sống là một điều vô cùng khó khăn. Thế nhưng muốn buông cái gì thì chính mình phải tìm hiểu cho kỷ cái gì đã làm cho mình đau khổ để mà buông, biết được cái nó hành hạ ta để mà buông cũng giống như thầy thuốc bắt mạch chẩn đoán đúng bệnh thì sẽ kê đơn thuốc chính xác và bệnh nhân sẽ lành, thế thôi!

Chúng ta đang sống trong thế tục thì chọn cách buông để đạt đến giác ngộ giải thoát như các vị tu sĩ xuất thế gian là một điều không tưởng. Thế nhưng chúng ta chọn cách buông để khỏi cuốn hút trong vòng xoáy cuộc sống, buông để tìm lại sự quân bình trong cuộc sống, buông để tìm thấy sự an lạc trong tâm hồn để mà sống cho có ý nghĩagiảm thiểu sự khổ đau, phiền não.là một điều có thể đạt được. Vậy thì hãy buông những gì cần buông, xả cái gì cần xả và nên giữ cái gì cần giữ.

-Cái buông thứ nhất là buông BẢN NGÃ: Theo tôi cái mà làm cho chúng ta khổ đau, điên đảo nhất chính là BẢN NGÃ của mình. Bản ngã càng lớn thì khổ đau càng nhiều. Bản ngã nó có một sức mạnh rất mãnh liệt nó biểu hiện từ những điều thô mộc nhất cho đến những điều vi tế nhất. Nói rằng buông hẳn bản ngã thì e rằng quá khó, vì đạt được VÔ NGÃ thì đã là chứng ngộ NIẾT BÀN rồi, tu bao nhiêu kiếp cũng chưa giác ngộ cũng vì chưa triệt tiêu được bản ngã, nhưng cố gắng tu tập để bào mòn nó đi, làm cho nó nhỏ bé đi chừng nào hay chừng đó cũng là một cái BUÔNG lớn rồi!. Tôi nhớ có lần được đọc một câu nói của Đức Đạt-lai Lạt-ma rằng “Những ai tu hành lâu mà không thấy mình nhỏ bé đi thì coi chừng đang tu sai”. Câu nói này rất đáng để cho chúng ta suy ngẫm mà điều chỉnh lại mình. Cái bản ngã nó bao trùm lên tất cả, nếu buông được bản ngã thì  những thứ khác nó tự tiêu luôn, nhưng khổ nỗi có mấy ai buông được cái ta vĩ đại của mình. Bao nhiêu thảm họa, bao nhiêu hệ lụy trong đời sống, trong giao tiếp cũng vì các bản ngã của mình quá lớn không có chổ cho bản ngã người khác tồn tại…Bản ngã là tác nhân gây chướng ngại nhất cho một con người muôn tu tập để tìm thấy sự an lạc trong cuộc sống, bản ngã là cái đã tạo ra muôn vàn hệ lụy gây khổ đau, phiền não trong cuộc sống thường ngày cho mỗi chúng ta. Ngài Thường Bất Khinh bồ-tát trong kinh Pháp Hoa mỗi lần thấy hàng xuất gia, tại gia, nam nữ... đều cung kính lễ bái khen ngợi rằng : "Tôi rất kính trọng các ngài, không dám khinh mạn, vì các ngài đều tu hành đạo Bồ-tát, sẽ đăng thành Phật". Đó là vị Bồ-tát tượng trương cho tinh thần vô ngã, vì ngài luôn tôn kính tất cả mọi người nên ngàì được xưng tán là Bô-tát thường bất khinh. Đó là cái hạnh hết sức vĩ đaị của các bậc tu hành xuất sĩ.

-Cái buông thứ hai là là buông LỢI: Sống trong trần thế với muôn vàn bon chen, tham vọng, giành giựt hơn thua, thế nên con người luôn đắm chìm vào trong danh và lợi, mà lợi là cái được rỏ ràng cụ thể nhất, nó mang đến cho con người hưởng được phú quý, vinh hoa, giàu sang  nên vì lợi mà người ta bỏ ra một kiếp người để theo đuổi nó. Người ta vui vẻ, hạnh phúc khi thu về cái lợi cho mình, mà không cần biết cái lợi mà ta thu được có làm cho ai phải khổ đau không. Tham vọng càng lớn thì tham lợi càng nhiều và tham lợi càng nhiều thì khổ đau càng lớn. Vậy thì hãy buông nó đi, hài lòng với những gì mình đang có, “thiểu dục tri túc”, đừng để tâm hồn ta khổ đau vì những cái hám lợi triền miên không có điểm dừng. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác đức Phật dạy: “Tâm vô yếm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ-tát bất nhĩ, thường niệm tri túcan bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp”.( Phải biết tâm người thì không bao giờ biết đủ, ngược lại chỉ mong cầu được nhiều nên càng thêm lớn nhiều tội ác. Còn người tu hạnh Bồ- tát thì chẳng phải vậy, vì họ thường nghĩ nhớ về pháp biết đủ, sống an vui trong cảnh nghèo khó mà giữ Đạo, và chỉ lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp duy nhứt cho đời tu của mình.)

-Cái buông thứ ba là buông DANH: Nếu nói tham lợi là những gì thuộc về cái tham vật chất thì tham danh là cái tham thuộc về tinh thần. Cái danh không làm cho ta giàu lên hay no đủ thêm nhưng nó có cái quyến rủ mãnh liệt với con người. Bởi thế nên Nguyễn Công Trứ đã từng nói: “đã mang tiếng đứng trong trời đất.phải có danh gì với núi sông”. Cũng vì cái danh gì đó mà khiến tâm bao người điên đảo, quay cuồng để kiếm một chút danh với đời. Cái danh nó có một sức hấp dẫn đặc biệt như thế nên người ta nên khuyên người ta buông  chữ DANH cũng vô cùng khó khăn. Nói thì hơi quá nhưng hình như bản năng con người vốn háo danh, ngày xưa trong chế độ phong kiến, con người sống trong xã hội ai cũng muốn có một cái tước hiệu đứng trước tên mình, ví như thầy thông X, ông Phán Y…trong làng xã thì cụ Lý A, ông Tổng B, ông Giáo C, cụ Cửu D…bây giờ thì cái danh được đề cao lên đến đỉnh điểm các quan chức thì nghe xướng một hồi dài nào là học hàm, học vị, chức tước rồi mới đến tên, ví như Giáo sư tiến sỹ Trần Văn Khiêm Tốn, Ủy viên TW…, bộ trưởng bộ K…., Thầy thuốc Nhân dân, phó giáo sư tiến sĩ, Bác sĩ Lê Trung Trực, cục trưởng cục Y, bộ X… Bệnh háo danh thì hình như lảnh vực nào cũng có, gia cấp nào cũng có, nó ăn sâu trong huyết quản con người rồi nên ai chỉ có cái tên trơ trọi mà trước đó không kèm thêm danh xưng nào đó thì cảm thấy mất tự tin và tự ty mặc cảm nữa !Người ta chấp vào danh xưng đến nỗi nếu ai đó lỡ xướng sai danh xưng của mình  thì liền nổi sân đùng đùng, có khi quên mất rằng mình đang ngồi trên tòa cao và hàng trăm con mắt đang nhìn, nhưng  khổ nỗi khi  có cảm giác cái ta của mình bị xúc phạm, danh xưng, tước vị của mình bị nhầm lẫn tức khắc cái sân nó nổi lên một cách khó kiểm soát. Thậm chí có những vị hiểu rất rỏ danh chỉ là giả danh là hư danh, buông bỏ danh xưng là một cách để viễn ly điên đảo, mộng tưởng, là điều kiện ắt có để tiến tu trên đường đạo, thế nhưng họ không thể buông được mà vẫn chấp danh xưng một cách cuồng nhiệt.

Có nhiều người nói BUÔNG nhưng thực ra chỉ là buông cửa miệng chứ vẫn còn nguyên đó CÁI TA (NGÃ) vĩ đại, cái của ta ( NGÃ SỞ) quý giá,  đồng thời cái tham đắm LỢI-DANH vẫn còn nguyên đó. Ôi NÓI BUÔNG thì dễ mà THỰC HÀNH BUÔNG mới khó làm sao?!


Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 920)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1239)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 708)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 679)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 752)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 729)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 885)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 929)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 887)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 918)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 794)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 855)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 942)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1087)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1564)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1099)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1168)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1045)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 746)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1422)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1296)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1259)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1258)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1402)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1141)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1249)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1253)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant