Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

20 Tháng Tư 202119:14(Xem: 3033)
Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Lòng Tin Quyết Định Vào Nền Tảng Phật Tánh

Nguyễn Thế Đăng

chu tieu 5

 

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói:

Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại tín tâm, do vậy nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại tín tâm chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin làm xóa tan sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng và hòa nhập chủ thể vào đối tượng. Lòng tin làm chúng ta vượt khỏi những phiền não che chướng để tiếp xúc và hòa nhập với Phật tánh như là đại tín tâm. Lòng tin giúp chúng ta vượt khỏi những giới hạn không gian thời gian để hòa nhập vào “biển cả Phật tánh”.

Phật tánh là nền tảng thường trụ của lòng tin, cho nên kinh gọi là Đại tín tâm. Chính trên nền tảng Phật tánh đại tín tâm này mà tất cả các hạnh Bồ tát được triển khai. Tất cả các hạnh Bồ tát chính là sự triển khai của nền tảng Phật tánh này và sự triển khai các hạnh Bồ tát giúp cho Bồ tát “nhập pháp giới Phật tánh”. Đây chính là đại tín tâm.

Lòng tin là tin vào nền tảng Pháp thân vô biên vô ngại và các phẩm tính trong nền tảng ấy. Cũng đoạn kinh này nói:

Thiện nam tử! Như Lai thường trụ gọi là Ngã. Pháp thân Như Laivô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám tự tại nên gọi là Ngã. Ngã ấy chính là Đệ nhất nghĩa Không.

Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả chính là Phật tánh. Phật tánh chính là Như Lai.

Nhất tử địa chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.

Trí lực thứ tư, mười hai nhân duyên, bốn trí vô ngại, Đảnh tam muội chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân Như Lai vô biên vô ngại, chẳng sanh chẳng diệt, có đủ tám tự tại, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, nhất tử địa, trí lực thứ tư, đảnh tam muội. Và tất cả các hạnh Bồ tát, trí huệ, thiền định… đều không thể ra ngoài Phật tánh Pháp thân vô biên vô ngại này. Lòng tin là tin vào Phật tánh Pháp thân là nền tảng thường trụ cho mọi sự tu hành. Lòng tin là tin rằng chúng sanh chúng ta chẳng bao giờ có thể lìa ngoài Phật tánh vô biên vô ngại này, dù có đang sống theo cách thế nào. Nói cách khác, chúng ta dù có thế nào, vẫn đang sống trong Phật tánh, chẳng qua vì vô minh che chướng cho nên Phật tánh chưa hiện tiền mà thôi.

Lòng tin là tin rằng Phật tánh tổng nhiếp tất cả Phật pháp, và tất cả mọi pháp môn đều lưu xuất từ nền tảng Phật tánh.

Phật tánh gọi là Đảnh tam muội. Vì do tu hành Đảnh tam muội này nên có thể tổng nhiếp tất cả Phật pháp, do đây nên nói Đảnh tam muộiPhật tánh. Thập trụ Bồ tát tu tam muội này chưa được đầy đủ, nên tuy thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Vì tất cả chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

Tóm lại, lòng tin là tin rằng tất cả chúng sanh đều vốn có Phật tánh và đang sống trong Phật tánh. Con đường đi đến Phật tánh trọn vẹn cũng và luôn luôn nằm trong Nền tảng Phật tánh vốn có sẳn này.

 

Tin vào nền tảng Phật tánhlòng tin quyết định:

Lại có Tỳ kheo nói kinh điển tạng bí mật rất sâu của Phật, “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì tánh này đoạn dứt vô lượng ức phiền não trói buộc bèn được thành Vô thượng Chánh giác, trừ hạng nhất xiển đề”. Nếu có vua hoặc đại thần thưa hỏi rằng: ‘Tỳ kheo, ông sẽ thành Phật hay chẳng thành Phật? Ông có Phật tánh chăng?’ Vị Tỳ kheo ấy đáp, ‘Trong thân đây của tôi quyết địnhPhật tánh, còn thành Phật hay chẳng thành thì chưa có thể xác định rõ. Vua lại nói, ‘Đại đức không phải hạng nhất xiển đề ắt sẽ thành Phật, không nghi ngờ gì’. Tỳ kheo đáp rằng, ‘Quả thật như lời vua nói’. Dầu Tỳ kheo nói quyết địnhPhật tánh, nhưng cũng không phạm tội Ba la di.

Lại có Tỳ kheo lúc xuất gia suy nghĩ rằng, ‘Nay tôi quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh giác’. Người như vậy tuy chưa được thành đạo quả vô thượng, nhưng đã được vô lượng vô biên phước đức chẳng thể tính đếm. Giả sử có người nói người ấy phạm tội ba la di thì tất cả Tỳ kheo không có ai chẳng phạm.

Vì sao thế? Xưa kia trong tám mươi ức kiếp, ta thường giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thưở ấy ta cũng tự biết một cách quyết định rằng mình có Phật tánh. Thế nên nay ta thành Vô thượng Chánh giác, được gọi là Phật, có đại từ bi” (phẩm Tà Chánh).

Lòng tin quyết định là tin nơi mình và nơi mỗi người khác vốn có sẳn Phật tánh, và đưa lòng tin ấy thành hiện thực bằng những phương tiện tu hành, xóa bỏ những phiền não ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, ngăn cách che chướng để tất cả cùng sống trong Phật tánh, tức là đại tín tâm. Niềm tin quyết định vào nền tảng Phật tánhbước đầu tiên cũng là bước cuối cùng, bởi vì Phật tánh chính là Như Lai.

Phật tánh có những phẩm tính để lòng tin thêm sùng tín, ngưỡng mộ, khát khao:

Phật tánh có sáu điều: Một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là thấy trực tiếp (đương kiến), sáu là chân. Điều thứ bảy là có thể chứng. Đây gọi là Bồ tát biết Phật tánh” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh có một an lạc là thấy hiện tiền (đương kiến)

Đức Phật chỉ bày thực tại Phật tánh khiến cho chúng ta có thể thấy được Phật tánh vốn có nơi mình:

Như Lai tức là tướng giác, tướng thiện, thường, lạc, ngã, tịnh, giải thoát, chân, thật, chỉ bày đạo (Phật tánh) để có thể thấy được (thị đạo khả kiến)” (phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu).

Phật tánh vốn có nơi mỗi chúng sanh là có thể thấy được, thấy trực tiếp, thấy hiện tiền, ngay trước mắt. Chính từ lòng tin Phật tánh đang hiện diện ngay trước mắt khiến chúng tađộng lực lớn để thực hành các pháp môn, và pháp môn nào cũng đặt nền trên Phật tánh và không ra ngoài Phật tánh. Đó là đức tin quyết định lấy Phật tánh làm nền tảng.

 

Lòng tin khiến cho chúng sanh nổi lên mà không chìm khi vượt sông sanh tử, ở đây được ví với việc băng qua dòng sông Hằng.

Phật nói: Sông lớn sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc phiền não mà khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử.

Thiện nam tử! Hạng nhất xiển đề dứt mất tất cả căn lành nên chìm hẳn xuống dòng sông sanh tử không thể nổi lên. Vì sao thế? Vì nghiệp xấu ác nặng và không có sức mạnh của lòng tin.

Hạng thứ nhì là những người khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử, nhưng vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói thoát được nghĩa là gần gũi bạn lành (thiện tri thức) bèn được lòng tin. Lòng tin là tin bố thí và quả bố thí, tin nghiệp thiện và quả thiện, tin nghiệp ác và quả ác, tin sanh tử là khổ, vô thường, hư hoại. Do được lòng tin nên tu tập tịnh giới, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thường thích bố thí, khéo tu trí huệ. Nhưng vì độn căn lại gặp bạn xấu nên chẳng thể tu thân, giới, tâm, huệ, nghe nhận pháp tà, hoặc gặp thời xấu ác ở nơi cõi nước xấu ác nên dứt mất những căn lành mà thường chìm trong sanh tử, như hạng người thứ hai bên sông Hằng.

Hạng người thứ ba khởi ý muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm đắm trong sông. Gần gũi thiện tri thức thì gọi là thoát khỏi. Tin Như Lai là bậc Nhất thiết trí, thường hằng không biến đổi, vì chúng sanh mà nói đạo vô thượng, tất cả chúng sanh đều có trọn vẹn Phật tánh, Như Lai chẳng phải diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Nhất xiển đề nếu chẳng dứt pháp xấu ác tà kiến thì không bao giờ đạt được Giác ngộ vô thượng, phải xa lìa các pháp xấu ác rồi sau mới đạt được. Do lòng tin nên tu tịnh giới rồi liền thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, truyền rộng cho chúng sanh, thích bố thí, tu tập trí huệ, nhờ lợi căn trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển, như hạng người thứ ba bên sông Hằng (chìm rồi được nổi lên).

Hạng thứ tư muốn qua sông sanh tử, vì dứt căn lành nên bị chìm. Nhờ gần gũi bạn lành thiện tri thức nên được lòng tin, gọi là được nổi lên. Có được lòng tin bèn thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển, quan sát khắp bốn phương. Bốn phương này là bốn quả Sa môn, như hạng người thứ tư bên sông Hằng.

Hạng thứ năm muốn vượt qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên bị chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên chuyển đổi có được lòng tin, gọi là được nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, thích bố thí, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững vàng trong tin và huệ, tâm không thối chuyển. Do không thối chuyển bèn tiến tới trước. Tiến tới trước là nói quả Phật Bích Chi, dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến chúng sanh, đây gọi là đi, như hạng người thứ năm bên sông Hằng.

Hạng thứ sáu muốn qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong sông. Nhờ gần gũi bạn lành mà được lòng tin, đây gọi là nổi lên. Do có lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc trong tin và huệ, không thối chuyển bèn tiến tới trước. Cho đến chỗ cạn thì đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói Bồ tát vì muốn độ chúng sanh nên trụ lại quán sát phiền não, như người thứ sáu bên sông Hằng.

Hạng thứ bảy muốn vượt sông lớn sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành, có được lòng tin. Được lòng tin gọi là nổi lên. Do lòng tin nên thọ trì, đọc tụng, biên chép giảng nói Mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà truyền rộng, vui thích bố thí bằng trí huệ, tu tập trí huệ. Nhờ lợi căn nên an trụ vững chắc lòng tin, trí huệ, tâm không thối chuyển. Không thối chuyển liền tiến lên trước. Đã tiến lên thì được đến bờ kia, trèo lên núi cao, lìa hết những sợ hãi, thọ hưởng nhiều an lạc.

Thiện nam tử! Núi bên bờ kia ví dụ Như Lai, thọ hưởng an lạc ví dụ Phật thường trụ, núi cao lớn ví dụ Đại Niết bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Bảy loại người là bảy cấp độ giải thoátgiác ngộ. Tất cả khởi đầu bằng lòng tin do gần gũi thiện tri thức. Trên nền tảng lòng tin này mới tu tập thiền định, thiền quán, vui thích bố thí, giảng nói cho nhiều người, tức là làm hạnh Bồ tát. Căn lành là thiện căn, được mọc lên và nuôi dưỡng trong nền tảng lòng tin. Khi lòng tin yếu đi, nếu “gặp bạn xấu và hoàn cảnh thời kỳ xấu ác nên dứt mất căn lành mà chìm trong sanh tử”. Lòng tin làm cho người ta không bị chìm mà nổi lên mới hy vọng vượt sông.

Những người vượt được qua dòng sông sanh tử là “nhờ trụ vững nơi tin và huệ, tâm không thối chuyển”, rồi cứ thế mà nương vào các Phật pháp tiến tới cho đến mục đích cuối cùng. Thế nên lòng tin là bước căn bản đầu tiên cho đến cuối cùng là “Phật tánh đại tín tâm”.

Lòng tin quyết địnhPhật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người là nền tảng trên đó con đường thực hành trải dài cho đến cuối cùngđạt đến Giác Ngộ vô thượng. Thế nên Đức Phật nói về sự quý báu của Kinh Đại Bát Niết Bàn này, ở đây chỉ trích ra một số câu:

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này là bảo tạng trong tất cả pháp.

Như biển cả là kho tàng chứa những châu báu, Kinh Đại Niết Bàn này cũng vậy, chính là bí tạng của tất cả chữ nghĩa.

Như núi Tu Di là nguồn gốc của các vị thuốc, kinh này cũng vậy, là căn bản của giới Bồ tát.

Như hư không là chỗ ở của tất cả vật, kinh này cũng vậy, chính là chỗ ở của tất cả pháp thiện.

Như gió mạnh không gì trói buộc được, tất cả Bồ tát thực hành kinh này cũng vậy, chẳng bị tất cả phiền não ác pháp trói buộc.

Như kim cương không gì phá hoại được, kinh này cũng vậy, tuy có ngoại đạo ác tà cũng không thể phá hoại.

Như cát sông Hằng không ai đếm được, nghĩa của kinh này cũng không thể tính đếm.

Kinh này có thể làm ánh sáng pháp trên tất cả Bồ tát như mặt trời mặt trăngthế gian có thể phá tan mọi tối tăm.

Kinh này có thể làm vị thuốc tốt lớn lao cho chúng sanhbệnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc vua vi diệu có thể trị các bệnh.

Kinh này có thể làm bóng mát cho những ai bị nóng phiền não khi lang thang trong hai mươi lăm cõi hữu, như cây lọng ở thế gian che nắng nóng.

Kinh này là vua đại vô uý có thể phá tan tất cả phiền não ác ma, như vua sư tử hàng phục các thú.

Kinh này là đại thần chú có thể phá tan tất cả phiền não ác quỷ, như chú sưthế gian có thể đuổi dẹp quỷ võng lượng.

Kinh này là mưa đá vô lượng có thể phá hoại tất cả quả báo của sanh tử, như mưa đá ở thế gian phá hoại các thứ cây trái.

Kinh này là tấm gương sáng cho những chúng sanh phá giới, như gương sángthế gian soi thấy các hình dạng của vật.

Kinh này hay vì Bồ tát Sơ địa cho đến Bồ tát Thập địa mà làm thừa (cổ xe) chủng tánh thanh tịnh đầy đủ các thứ chuỗi ngọc, các thứ hương, hơn tất cả sự vui vi diệu của sáu môn Ba la mật, như cây Ba lợi chất đa la trên cõi trời Đao lợi” (phẩm Bồ tát Ca Diếp).

Sở dĩ tán dương sự quý báu, đa dạng của Kinh vì Kinh này giảng sâu và rộng về Phật tánh vốn sẳn đủ nơi mỗi người. Phật tánh này vừa là Nền tảng của tất cả chúng sanhthế giới, đồng thờiCon đường để thể hiện Nền tảng ấy và cũng là Quả của Con đường.

Tóm lại, Phật tánh là Nền tảng, vừa là Con đường, vừa là Quả, và cả ba đều nằm trong lòng tin xuyên suốt từ nhất xiển đề, đến bốn quả của Thanh Văn thừa, đến Bồ tát, cho đến Phật quả.

 

Lòng tin là tin vào Phật tánh vốn thường trụ, nên có thể “thấy trực tiếp, hiện tiền”. Tin là tin vào những phẩm tính chẳng thể nghĩ bàn của Phật tánh được nói trong Kinh. Chính lòng tin này khiến chúng ta có thể thấy ít phần Phật tánh để hòa nhập và sống hẳn trong đó.

Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn: Một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chẳng quá giới hạn, năm là có nhiều thứ kho tàng báu, sáu là những chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa xác chết, tám là tất cả các dòng đều đổ về và mưa lớn đổ xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Ở đây chỉ trích ra phẩm tính thứ tám của Kinh Đại Niết Bàn và cũng là phẩm tính thứ tám của Phật tánh:

Thứ tám là chẳng tăng chẳng giảm, vì không biên bờ, vì không bắt đầu không chấm dứt, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải làm ra, vì chẳng sanh chẳng diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một Phật tánh. Đó gọi là chẳng tăng chẳng giảm.

Thế nên kinh này như biển cả kia, có tám điều chẳng thể nghĩ bàn” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

Khi tin rằng Phật tánh là chẳng tăng chẳng giảm, không bắt đầu không chấm dứt, không biên bờ, không sanh không diệt, bình đẳng với tất cả chúng sanh vì tất cả đồng một Phật tánh, người ta bắt đầu thấy Phật tánh và hòa nhập với nó.

Pháp giới bình đẳng và đồng nhất này không gì khác hơn là sự biểu lộ của Phật tánh tự tâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1134)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1032)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant